truyện VN Ở ĐÂY
X1 NK Pro's Forum :: Rì-lách :: Chia Sẻ
Trang 2 trong tổng số 3 trang
Trang 2 trong tổng số 3 trang • 1, 2, 3
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Anh Hai Vợ
Một
anh chàng hai vợ, tối đến phải ngủ
chung với vợ lớn ở nhà trong, còn vợ
bé thì nằm ở nhà ngoài.
Một đêm, trời đã về khuya, cô vợ bé hát:
Đêm khuya, gió lặng
sóng yên,
Lái kia có muốn, ghé
thuyền sang chơi.
Anh chồng muốn ra với vợ bé, nhưng bị vợ cả ôm giữ, mới đáp rằng:
Muốn sang bến ấy cho vui,
Mắc đồn bến gác
khó xuôi được dòng.
Nghe thấy vậy, chị vợ cả liền hát:
Sông kia ai cấm mà lo,
Muốn xuôi thì nộp thuế đo rồi xuôi.
Cô vợ bé đáp:
Chẳng buôn chẳng bán
thì thôi,
Qua đồn hết vốn,
còn xuôi nỗi gì.
Chẳng hiểu sau đó anh chồng có "xuôi" được không?
Được sửa bởi ngày 22/1/2008, 10:08 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Chàng Khờ
chàng khờ đi mua một con bò. Mấy lâu mong ước, nay mới tậu được con bò, Khờ thích lắm, chăn dắt cả ngày. Bò chóng béo. Sợ kẻ trộm vào dắt mất, đêm đêm bò đã cột vào ràn (chuồng) rồi, Khờ còn cẩn thận vác chõng đặt chặn cửa, nằm canh.
Nhưng Khờ vẫn để mất bò. Một đêm, Khờ ngủ say, kẻ trộm vào. Chúng khiêng chõng đặt nơi khác rồi bắt mất bò. Để trêu Khờ, chúng còn cạo trọc đầu Khờ.
Sáng dậy mất bò, Khờ hoảng quá. Khờ tru tréo rồi chạy lung tung tìm bò. Khi đã mệt, soi gương, Khờ lại bảo: "A! Thằng trọc mất bò chứ không phải là tao".
chàng khờ đi mua một con bò. Mấy lâu mong ước, nay mới tậu được con bò, Khờ thích lắm, chăn dắt cả ngày. Bò chóng béo. Sợ kẻ trộm vào dắt mất, đêm đêm bò đã cột vào ràn (chuồng) rồi, Khờ còn cẩn thận vác chõng đặt chặn cửa, nằm canh.
Nhưng Khờ vẫn để mất bò. Một đêm, Khờ ngủ say, kẻ trộm vào. Chúng khiêng chõng đặt nơi khác rồi bắt mất bò. Để trêu Khờ, chúng còn cạo trọc đầu Khờ.
Sáng dậy mất bò, Khờ hoảng quá. Khờ tru tréo rồi chạy lung tung tìm bò. Khi đã mệt, soi gương, Khờ lại bảo: "A! Thằng trọc mất bò chứ không phải là tao".
Được sửa bởi ngày 22/1/2008, 10:10 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Cây Tre Trăm Đốt
Ngày xưa có một chàng trai cày hiền khỏe mạnh đi ở cho một lão già giàu. Anh rất chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh đến vàngon ngọt dỗ dành:
- Con chịu khó làm lụng thức khuya dậy sớm giúp ta, chớ quản nhọc nhằn, ba năm nữa ta sẽ gã con gái cho.
Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thế quần quật làm giàu cho lão. Ba
năm sau, nhờ công sức anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm
được ruộng được vườn. Nhưng lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân mật bảo anh trai cày:
- Con thật có công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới cho con trai, con gái chúng. Hai lão hí hững bảo nhau: "Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm, suốt tháng cũng đố mà tìm được cây tre dài đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!".
Về phần anh trai cày, anh hì hục trèo đèo lội suối luồn hết bờ này bụi khác tìm kiếm mà chỉ tìm thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá ngồi bưng mặt khóc.
Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên, hỏi:
- Làm sao con khóc?
Anh trai cày thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Bụt cười và bảo:
- Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre. Đem xếp nối với nhau rồi hô: "Khắc nhập, khắc nhập" thì có ngay cây tre trăm đốt.
Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre dính liền nối nhau thành một cây tre dài đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Nhưng cây tre dài quá, vướng bờ, vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:
- Cây tre trămđốt có, sao con còn khóc?
Anh nói tre dài quá không vác về nhà ]được. Bụt liền bảo:
- Con hãy hô: "Khắc nhập, khắc nhập", những đốt tre ấy sẽ rời ra!
Anh làm theo lời Bụt, tự nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó, mừng rỡ gánh về.
Lúc về tới nơi, thấy hai họ đang ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng không nói năng gì, lẵng lặng xếp một trăm đốt tre nối nhau và hô: "Khắc nhập, khắc nhập". Một cây tre đúng một trăm đốt tươi xanh óng ảhiện ra trước mặt mọi người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem, anh đọc luôn: "Khắc nhập, khắc nhập". Lão ta dính liền ngay vào cây tre, không tài nào rứt ra được. Lão thông gia thấy vậy, chạy lại tính gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới gần, rồi lại đọc: "Khắc nhập, khắc nhập".
Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu
khóc thảm thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước
hai họ sẽ gả con gái cho anh ngay hôm đó. Lúc bấy giờ anh mới khoan thai đọc: "Khắc xuất, khắc xuất".Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau suốt đời.
Được sửa bởi ngày 22/1/2008, 10:15 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Thần Giữ Của
Ngày Xưa có hai anh em nhà kia rất nghèo nàn. Cả hai anh em chỉ chuyên nghề bán rau đốn củi đổi gạo sống qua ngày.
Tuy nghèo, hai anh em vẫn nhân từ phúc hậu thường hay bố thí chén cơm,
chén gạo cho kẻ già yếu tật nguyền. Trong nhà có nuôi con chó cái lúc
nọ đẻ ra con chó trắng chỉ có ba chân. Làng xóm cho là quái vật hiện lên khuyấy phá bảo giết đi, anh em chẳng những không giết mà còn nuôi dưỡng con chó đến ngày khôn lớn.
Một hôm hai anh em đang ngồi ăn cơm, chợt thấy một ông lão ăn mày chống gậy vào cửa xin cơm. Cả hai đều nhường cơm cho lão ăn mày ăn no. Ăn xong ông lão ăn mày nói:
- Tiếng đồn quả thật không sai, hai anh em một nhà đều là người nhân đức, đáng được thưởng. Ta nay không phải là kẻ ăn mày nghèo khó mà là Thần giữ kho vàng Sơn Tây, lúc nãy muốn thử lòng các ngươi, nay ta đã biết rồi. Ta muốn ban cho các ngươi kho vàng.
Ông lão ăn mày tức thần giữ của kho vàng tiếp rằng:
-Ngày xưa có một vị quan Tàu tên là Mã Kỳ, có chôn giấu tại một khu
vườn thuộc huyên Lập Thạch tỉnh Sơn Tây một kho vàng và phong ta làm
Thần giữ của, hẹn đúng một trăm năm thì có người trở lại lấy. Ta trong đợi mãi, hơn một trăm năm rồi chẳng thấy người của Mãû Kỳ trở lại, nhân thấy các ngươi nghèo khổ mà có lòng nhân đức nên ta định đem kho tàng tặng cho các ngươi. Nhưng các ngươi phải đợi đủ một trăm ngày à phải có một con chó trắng (tức chó cò) ba chân đem trước của kho tàng tức là tòa miếu cổ ở khu vườn, bắt nó sủa lên ba tiếng, tự nhiên cửa kho tàng bên cái kệ đámở ra. Thôi các ngươi hãy cố nhớ lời, ta xin kiếu.
Nói rồi, Thần giữ của biến đi. Hai anh em đợi đúng một trăm ngày, dắt con chó cò đến miếu hoang, tới bên cái bệ đá, bắt chó sủa lên ba tiếng, tức thì cánh cửa đặt ngầm trong cái bệ đá
mở toang, nhìn vào trong thì thấy một dãy chum vại nằm kề liền nhau.
Hai anh em bước vào mở nắp chum vại ra xem thấy toàn vàng và bạc. Đem
về đếm được một nghìn cân vàng và ba vạn cân bạc.
Từ đó, hai anh em trở nên giàu có lớn. Gặp lúc Mạc Đăng Dung chiếm đoạt ngôi nhà Lê, hai anh em nhờ người cận thần tiến dẫn đem biếu Mạc Đăng Dung một trăm cân vàng, một trăm cân bạc. Vua Mạc cho thâu nhận rồi phong cho hai anh em tước Quận công.
Cách ba năm sau, có năm, sáu người Tàu dắt một con chó trắng đến
ngay tòa miếu chôn của mở cửa kho vàng, họ chỉ thấy kho vàng trống
trơn. Họ kêu khóc thảm thiết. Hai anh em Quận công sai người gọi họ đến thì họ đáp rằng:
- Chúng tôi là con cháu của Mã Kỳ ở bên Trung Quốc, trăm năm trước tổ phụ của chúng tôi có để tại Sơn Tây một kho tàng châu báu, hiện còn gia phả để lại đàng hoàng, nhưng chúng tôi đến đây rồi, thì kho tàng không biết ai đã lấy mất rồi, vì vậy chúng tôi buồn khổ mà khóc.
Hai anh em Quận công nói rằng:
- Nhờ thần nhân chỉ bảo, nên anh em chúng ta lấy được kho vàng.
Mấy người Tàu liền hỏi:
- Làm sao các ngươi lấy được kho vàng, vì muốn mở cửa kho vàng phải có con chó cò ba chân mới mở được.
Anh em Quận công bảo rằng:
- Nhà chúng ta có sẵn.
Rồi anh em thuật cho họ nghe, chuyện con chó cái nhà mình đẻ ra con chó trắng mà mọi người cho là quái vật, cho họ nghe.
Họ nói:
-Thế thì trời đã
giành cho các ngài, chớ giống chó có ba chân chỉ có quận Sầm Châu tỉnh
Quảng Đông bên Tàu mới có mà thôi. Bây giờ của các ngài đã lấy rồi, chúng tôi còn giữ lấy con chó làm gì nữa, vậy xin tặng luôn các ngài đó.
Hai anh em Quận công thương tình, cho họ ba chục cân vàng và một trăm cân bạc để làm lộ phí trở về Tàu.
Ngày Xưa có hai anh em nhà kia rất nghèo nàn. Cả hai anh em chỉ chuyên nghề bán rau đốn củi đổi gạo sống qua ngày.
Tuy nghèo, hai anh em vẫn nhân từ phúc hậu thường hay bố thí chén cơm,
chén gạo cho kẻ già yếu tật nguyền. Trong nhà có nuôi con chó cái lúc
nọ đẻ ra con chó trắng chỉ có ba chân. Làng xóm cho là quái vật hiện lên khuyấy phá bảo giết đi, anh em chẳng những không giết mà còn nuôi dưỡng con chó đến ngày khôn lớn.
Một hôm hai anh em đang ngồi ăn cơm, chợt thấy một ông lão ăn mày chống gậy vào cửa xin cơm. Cả hai đều nhường cơm cho lão ăn mày ăn no. Ăn xong ông lão ăn mày nói:
- Tiếng đồn quả thật không sai, hai anh em một nhà đều là người nhân đức, đáng được thưởng. Ta nay không phải là kẻ ăn mày nghèo khó mà là Thần giữ kho vàng Sơn Tây, lúc nãy muốn thử lòng các ngươi, nay ta đã biết rồi. Ta muốn ban cho các ngươi kho vàng.
Ông lão ăn mày tức thần giữ của kho vàng tiếp rằng:
-Ngày xưa có một vị quan Tàu tên là Mã Kỳ, có chôn giấu tại một khu
vườn thuộc huyên Lập Thạch tỉnh Sơn Tây một kho vàng và phong ta làm
Thần giữ của, hẹn đúng một trăm năm thì có người trở lại lấy. Ta trong đợi mãi, hơn một trăm năm rồi chẳng thấy người của Mãû Kỳ trở lại, nhân thấy các ngươi nghèo khổ mà có lòng nhân đức nên ta định đem kho tàng tặng cho các ngươi. Nhưng các ngươi phải đợi đủ một trăm ngày à phải có một con chó trắng (tức chó cò) ba chân đem trước của kho tàng tức là tòa miếu cổ ở khu vườn, bắt nó sủa lên ba tiếng, tự nhiên cửa kho tàng bên cái kệ đámở ra. Thôi các ngươi hãy cố nhớ lời, ta xin kiếu.
Nói rồi, Thần giữ của biến đi. Hai anh em đợi đúng một trăm ngày, dắt con chó cò đến miếu hoang, tới bên cái bệ đá, bắt chó sủa lên ba tiếng, tức thì cánh cửa đặt ngầm trong cái bệ đá
mở toang, nhìn vào trong thì thấy một dãy chum vại nằm kề liền nhau.
Hai anh em bước vào mở nắp chum vại ra xem thấy toàn vàng và bạc. Đem
về đếm được một nghìn cân vàng và ba vạn cân bạc.
Từ đó, hai anh em trở nên giàu có lớn. Gặp lúc Mạc Đăng Dung chiếm đoạt ngôi nhà Lê, hai anh em nhờ người cận thần tiến dẫn đem biếu Mạc Đăng Dung một trăm cân vàng, một trăm cân bạc. Vua Mạc cho thâu nhận rồi phong cho hai anh em tước Quận công.
Cách ba năm sau, có năm, sáu người Tàu dắt một con chó trắng đến
ngay tòa miếu chôn của mở cửa kho vàng, họ chỉ thấy kho vàng trống
trơn. Họ kêu khóc thảm thiết. Hai anh em Quận công sai người gọi họ đến thì họ đáp rằng:
- Chúng tôi là con cháu của Mã Kỳ ở bên Trung Quốc, trăm năm trước tổ phụ của chúng tôi có để tại Sơn Tây một kho tàng châu báu, hiện còn gia phả để lại đàng hoàng, nhưng chúng tôi đến đây rồi, thì kho tàng không biết ai đã lấy mất rồi, vì vậy chúng tôi buồn khổ mà khóc.
Hai anh em Quận công nói rằng:
- Nhờ thần nhân chỉ bảo, nên anh em chúng ta lấy được kho vàng.
Mấy người Tàu liền hỏi:
- Làm sao các ngươi lấy được kho vàng, vì muốn mở cửa kho vàng phải có con chó cò ba chân mới mở được.
Anh em Quận công bảo rằng:
- Nhà chúng ta có sẵn.
Rồi anh em thuật cho họ nghe, chuyện con chó cái nhà mình đẻ ra con chó trắng mà mọi người cho là quái vật, cho họ nghe.
Họ nói:
-Thế thì trời đã
giành cho các ngài, chớ giống chó có ba chân chỉ có quận Sầm Châu tỉnh
Quảng Đông bên Tàu mới có mà thôi. Bây giờ của các ngài đã lấy rồi, chúng tôi còn giữ lấy con chó làm gì nữa, vậy xin tặng luôn các ngài đó.
Hai anh em Quận công thương tình, cho họ ba chục cân vàng và một trăm cân bạc để làm lộ phí trở về Tàu.
Được sửa bởi ngày 22/1/2008, 10:19 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Ác Lai, Ác Báo
Ngày xưa có một anh thợ câu nọ có tính tàn ác, thường bỏ thuốc độc xuống các khe suối để cá chất nổi lên.
Hôm nọ, tình cờ anh ta gặp một con lươn bạch tại khe suối.
Dân trong làng bảo:
- Không nên, con lươn bạch này tu lâu năm rồi...
Vì bản chất độc ác, anh ta đem thuốc ra, toan bỏ xuống nước.
Có ông thầy chùa chạy đến nài nỉ:
- Nếu vậy cậu giết tôi còn hay hơn.
Anh nọ nói:
- Nếu ông có đói thì tôi cho ông ăn chứ tôi cương quyết giết con lươn này...
Anh ta mời thầy chúa về nhà, đãi bữa cơm chay. Mãn buổi cơm, anh ta ra suối bỏ thuốc độc. Thuốc pha vào nước suối đỏ ngầu. Trong nháy mắt, con lươn nọ trồi lên lờ đờ như điên dại. Lạ thay trong bụng con lươn có mấy món đồ chay đã đãi ông thầy chùa khi nãy.
Dân làng xôn xao bàn tán, cho rằng ông thầy chùa chính là con lươn trá hình.
Từ đó anh thợ câu lấy làm e ngại. Vợ anh có thai. Lớn lên, đứa con đau ốm liên miên, báo hại anh thợ câu phải tan gia bại sản mà chạy thuốc cho nó.
Được sửa bởi ngày 22/1/2008, 10:20 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Ba Chàng Rể
Hai vợ chồng nhà nọ khá giàu có cũng chỉ sinh được
một cô con gái. Cô này có nhan sắc. Có ba chàng trai ngấp nghé làm rể:
Một tú tài, một khóa sinh và một nông dân. Chẳng may phú ông qua đời, bà vợ bảo: "Ai làm bài văn tế ông nghe mà cảm động thảm thiết sẽ gả con gái cho".
Tưởng văn chương là nghề múa tay trong bị, chàng tú tài làm một bài văn chữ Hán đối nhau chan chát và đầy điển tích, nhưng mới bắt đầu đọc chữ "duy" đã bị anh chàng nông dân đứng lên cãi: "Duy là giữ lại. Bố chết được
chôn cất là hay, tại sao lại bảo giữ lại". Không ngờ bị một anh vô học
phá ngang, chàng tú tài bèn bỏ ra về. Đến chàng thứ hai nhờ người gàbài
văn tế mở đầu cũng có chữ "duy". Thấy đọc "duy" bị bắt bẻ, anh bèn đọc "di" nhưng lại bị anh nông dân bác: "di" là dời, bố chết chưa được mồ yên mả ấm lại bảo dời đi đâu?". Thẹn quá, anh chàng cũng bỏ luôn. Đến lượt anh nông dân, chẳng tài văn chương giấy má gì cả, đến trước quan tài, quỳ xuống vừa khóc vừa khấn nôm:
Ô hô! Ô hô! Ô hô!
Nhớ ông xưa:
Mình tròn trùng trục, râu dài lê thê
Ăn rồi: phát bờ, dọn khe, đan mủng đan sề
Ru con ẵm cháu, trồng cà dái dê.
Ông bỏ đi mô (đâu)? Ông lại chẳng về.
Nói đến đó, bà vợ người quá cố xúc động quá, khóc sướt mướt. Thế là anh chàng nông dân được làm rể.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 2:10 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Bãi Ông Nam
Ở
gần mũi Cà Mau hiện nay còn một cái miếu rất linh thiêng, đó là miếu Ông Nam.
Ông Nam tức là "Nam Hải đại tướng quân" chức vị mà nhà vua phong cho cá ông. Tục truyền rằng xưa kia đức Ngọc Hoàng giao cá Ông nhiệm vụ cứu vớt dân chài lưới khi họ gặp nạn giông tố. Mỗi "ông Nam đều có hai con mực cầm cờ dẫn đầu. Hai bên là hai con cá đao hộ vệ. Nếu gặp người lâm nạn mà ông Nam không cứu vớt tận tình thì cá đao có quyền tiền trảm hậu tấu, giết ông Nam lập tức.
Một ông Nam nọ trấn thủ vùng vàm sông ông Đốc, vịnh Xiêm La.
Nhằm tiết tháng giêng, nghe lời cá đao và con mực, ông Nam bày một cuộc ngao du bọc theo mũi Cà Mau qua vòm sông Cửu Long. Cá mực và cá đao nói:
- Ngài cứ đi. Dẫu đường xa xôi nhưng chúng ta dư thì giờ trở về vàm sông ông Đốc trước mùa giông.
Qua khỏi mũi Cà Mau, ông Nam đến vàm sông Bồ Đề. Bỗng đâu gió nổi lên ầm ầm. Cá mực và cá đao hốt hoảng:
- Trời nổi giông rồi ông ơi! Có người chìm ghe ở sông Bồ Đề. Phải về cứu gấp.
Ông Nam giật mình, dè đâu tai nạn xảy ra thình lình như thế này! Từ đây về vàm sông ông Đốc phải đi trên một ngày đường làm sao cứu kịp. Trong lúc ấy, cá đao hối thúc bên hông. Ông Nam vô cùng hối hận vì không làm tròn nhiệm vụ của Ngọc Hoàng giao phó. Ông nói:
- Về đường biển thì không kịp, vì phải đi quanh. Chi bằng ta liều thân vào ngọn sông vượt đường rừng đi tắt.
Dứt lời, ông vào vàm sông Bồ Đề. Mùa nước cạn, thân hình ông Nam quá
lớn nên phải trườn trên bãi sông rất mệt nhọc. Nhè ông Nam có thai, gần
kì sinh đẻ nên sảy thai, đứa con trong bụng đẻ non dọc đường.
Ông Nam nhìn thi hài đứa con yêu dấu, không dám bịn rịn ở lại, cứ bò riết xuyên rừng tràm, rừng đước mà về dòng sông ông Đốc, nơi ông lãng trách nhiệm chân thủ.
Đến nơi, Ông Nam lập tức ra biển, cứu chiếc ghe chim nọ. Sứ mạng làm tròn nhưng ông Nam phải mang bệnh, mất sức khỏe rất nhiều.
Hay được tin ấy, Ngọc Hoàng xá tội cho Ông Nam. Và dân chúng ở bãi sông Bồ Đề lập một cái miếu để thờ đứa con vô tội của Ông.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 2:13 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Nhất Bên Trọng, Nhất Bên Khinh
Anh thợ Mộc hay chữ vào làm cho nhà một ông quan hưu trí. Ông ta thấy anh lanh lợi, nói năng hoạt bát, mới hỏi:
- Trước kia anh có học hành được chữ nào không?
Anh ta trả lời:
- Bẩm có ạ!
Ông quan liền chỉ con ngựa bạch quý của mình đang đứng ăn ở góc sân, bảo:
- Anh thử làm bài thơ vịnh con ngựa xem, hay thì ta sẽ thưởng.
Anh thợ mộc ứng khẩu đọc:
Bạch mã mao như tuyết
(Ngựa trắng lông như tuyết).
Tứ túc cương như
thiết (Bốn chân cứng như sắt).
Tướng công kị bạch
mã (Tướng công cưỡi ngựa trắng).
Bạch mã tẩu như phi
(Ngựa trắng chạy như bay).
Quan gật đầu khen hay rồi thưởng cho một thúng thóc, bên đồ lề, thấy bên nặng bên nhẹ, liền nói chữ "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe nói liền nghe thêm thùng thóc nữa để gánh cho cân.
Anh ta về kể lại chuyện cho mọi người nghe. Có anh hàng xóm dốt đặc cán mai, nhưng thấy được
lắm tiền, lắm thóc như thế, nổi tính tham, liền bảo anh thợ mộc dạy cho
bài thơ và câu nói chữ nọ. Học thuộc rồi, anh ta cũng sắp mộtđôi quang gánh và một ít dụng cụ vào dinh quan xin việc.
Quan cũng hỏi như lần trước, và anh này hí hửng đáp mình là học trò. Quan nhìn ra sân, thấy bà cụ quét sân bèn bảo anh ta làm thơ vịnh bà cụ. Anh này đã hơi lúng túng, vì chỉ thuộc mỗi một bài thơ vịnh con ngựa, bây giờ biết vịnh bà cụ như thế nào? Nhưng đã trót thì phải trót cũng "ứng khẩu" đọc:
- Bà cụ mao như tuyết...
Quan gật đầu:
- Ừ, được đấy!
Nghe quan khen, anh ta vững bụng đọc tiếp:
- Tứ túc cương như thiết.
Quan cau mày:
- Ý hơi hẹp, nhưng cũng tạm được, ngâm thiếp đi!
Mừng quá anh ta ngâm một mạch:
- Tướng công kị bà cụ,
Bà cụ tẩu như phi.
Quan nghe xong giận quá, quát người nhà nọc ra đánh cho ba mươi roi vào mông. Đứng dậy anh ta vừa xoa vừa nói: "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe liền bảo đánh ba mươi roi vào lưng cho cân.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 5:17 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Cây Hoa Sen Và Con Chim Cốc
Đời nhà Lý, có một anh ngư phủ tuy nghèo nhưng được cái duyên lấy người vợ đẹp. Tuy là đẹp người đàn bà này lại có tính lẳng lơ, có lần lại lén lúc giao tình với người khác.
Ngày nọ, có một nhà sư đi ngang chiếc ghe của gã ngư phủ, thấy vợ gã này xinh đẹp thì động tà tâm mới tìm cách lân la, bày việc kinh kệ cúng vái ở ghe gã thuyền chài.
Chẳng bao lâu nhà sư quan hệ được với vợ gã đánh cá. Chỉ có gã này bình chân như vại, không hay biết gì về chuyện lẹo tẹo của vợ mình.
Một hôm, thừa lúc người chồng đi vắng, người vợ rước nhà sư đến ghe, rồi toan bày cuộc mây mưa. Thình lình người chồng trở về, người vợ và nhà sư đều kinh hoảng, không biết trốn ở đâu cho thoát.
Lúng túng một hồi, cả hai đều nhảy ùm xuống sông. Vì không biết lội nên cả hai điều chết đuối. Người cợ thì hóa thàh cây hoa sen, nhà sư thì hóa thành cá hòa thượng.
Còn gã đánh cá, vì thấy quả tang nhà sư và vợ mình nhảy xuống sông nên nhảy theo để bắt, nhưng lặn hụp mãi bắt không được ai cả. Anh ta phẫn uất tự tử chết luôn, nên hóa thành con chim Cốc để rình rập bắt cá hòa thượng ở nơi nào có cây hoa sen mọc.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 5:18 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Cái Chén Sơn Son
Ngày
xưa, lâu lắm rồi, có một người
tiều phu nghèo khổ, sống trong một chiếc
lều chỏng chơ bên chân núi. Hàng
ngày, anh phải đốn củi để sống
cho qua ngày.
Một buổi tối, có
một người khách lạ tay chống gậy,
thất thểu lê chân đến túp lều
của anh và khẩn khoản nói:
- Anh bỏ qua cho, tôi đành
lòng phải nhờ anh việc này. Tôi đi đến đây thì bị lạc đường,
không biết làm sao bây giờ. Anh cho tôi
ngủ trọ một đêm có được
không?
Người tiều phu nhìn
qua cũng biết là người khách đường đi đã xa lắm rồi:
Thân mình đầy bụi,
người mệt lử không đứng vững.
Anh động lòng thương xót đáp
lại:
- Vâng, được, tôi
biết ông đã mệt lắm. Nếu ông
không nề đến chiếc lều rách nát
này, xin ông cứ nghỉ lại đây.
Người khách đường
vui vẽ bước vào. Người tiều phu
dốc hết gạo trong hũ đem nấu cơm đãi khách. Cơm ăn với đậu kho
lạt, nhưng người khách vừa ăn, vừa
tấm tắc khen ngon. Thoáng một lúc, người
ấy đã ăn hết sạch. Người tiều
phu phải tạm uống chút nước lã,
nhưng vẫn giấu không cho khách biết.
Sáng hôm sau, ông khách nói:
- Tôi cám ơn anh nhiều
lắm. Nhờ anh tôi tỉnh táo hẳn lại.
Cảm ơn anh! Không bao giờ tôi quên được
ơn này. Trênn sườn núi này có
một chiếc mồ. Khi nào thấy vẫn bách điều gì, anh cứ đến chỗ hồ đó mà vỗ tay ba cái: Bốp! bốp! bốp!
Mỗi lần làm như vậy anh sẽ được
ăn uống thõa thuê. Anh chỉ việc để
mâm bát lại mà thôi. Nói thật với
anh, tôi là thần Cá Chép sống ở
hồ đó.
Nói xong, ông khách biến
mất. Thế mới lạ chứ! Người tiều
phu cấu vào má mình mấy cái mới
tin rằng không phải mình chiêm bao. Anh nghĩ
bụng: Cứ đến đó làm thử xem
sao còn hơn ngồi mà phán đoán, và
anh đi thẳng tới chiếc hồ.
Nước hồ trong xanh, phản
chiếu cả trời mây, cây cỏ ở trên
bờ. Quang cảnh ở đây, cũng chẳng
có gì lạ mắt. Chưa hẳn tin ở lời
ông khách, cứ cho là ông ta giỡn mình,
anh tiều phu liền vỗ tay ba cái thật kêu:
Bốp, bốp, bốp!
Ô, lạ chưa! trước
mắt anh, nước hồ bỗng cuộn lên,
rồi một chiếc bàn bống loáng và
sang trọng nhô lên mặt nước, trên
bàn có bài biện la liệt đủ các
món sơn hào, hải vị. Chiếc bàn cứ
lặng lẻ chuyển đến sát người
tiều phu đứng trên bờ.
- Đúng như vậy! Kỳ
lạ thật! kỳ lạ thậ!
Người tiều phu sướng
qúa, nhảy lên vài lần rồi bê cả
mâm cổ về nhà mà ăn. Ăn xong, anh
lại xách mâm ra hồ mà trả đúng
như lời dặn. Chiếc mâm lại từ
từ chìm xuống đáy hồ.
Từ đó, người
ta đồn rằng người tiều phu sống
tha hồ sung sướng chẳng khác gì ông
vua. Cứ thấy đói bụng lúc nào, anh
lại vỗ tay ba lần, thế là một bữa
cơm thịnh soạn lại bày ra trước
mặt. Thường ngày, bác tự bảo: "
Mình ngốc quá, tội gì mà cứ phải
làm quần quật không chịu nghỉ ngơi
cho đỡ vất vả?". Vì vậy anh hết
ăn lại nằm ngủ, ngày này sang ngày
khác đến nổi thân hình anh béo phệ
một cách ghê ghớm.
Một lần, sau khi ngốn
hết bữa cổ linh đình của chiếc
hồ thần diệu, anh ngồi ngắm nghía một
chiếc chén sơn son rồi bỗng thốt lên:
" Chà, đẹp tuyệt!". Sao anh lại nghĩ
bụng: "Giá mình có lấy một cái chén
tuyệt đẹp thế này thì hay biết
mấy! Thần Cá Chép dặn mình ăn xong
phải trả lại tất cả thật đấy.
Nhưng, lấy một cái chén này thì đã
ra sao? Thôi, rồi thế nào đâu cũng
vào đấy!".
Anh lấy cái chén và
giấu vào trong tráp. Xong, anh lại bày biện
mọi thứ như cũ rồi trả lại mâm
ăn cho Thần Cá Chép.
Ngày hôm sau, khi thấy đói bụng, anh lại ra hồ vỗ liền
ba cái. Nhưng trên mặt hồ vẫn không
có gì nổi lên cả. Mặt nước
vẫn phẳng lặng. "Bốp, bốp, bốp!" Anh
lại vỗ tay mạnh hơn, nhưng vẫn không
thấy tăm hơi cái mâm cổ.
- Đồ khốn kiếp,
hắn biết mình lấy cái chén thật
rồi!
Anh giận giữ dậm chân
thình thịch, nhưng vẫn thấy im ắng như
trước. Lần này anh cương quyết hơn:
"Được rồi, đã lấy là lấy
hẳn. Ta sẽ đem bán, nhất định được
thối tiền!".
Từ hôm đó, chiếc
tráp trong nhà anh bỗng dưng cháy bùng
lên, rồi cả căn nhà cũng ùn ụt
cháy ra tro hết cả. Cả cái chén sơn
son cũng cháy biến không còn một dấu
vết. Người tiều phu ngồi than thở bên đóng tro tàn:
- Trời ơi! mình thật
ngu đần hết sức! Thế mới đáng
kiếp!
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 5:23 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Ba Phần Gia Tài
Xưa có một ông lái buôn tính tình hiền lành cẩn thận, trước khi nhắm mắt lìa đời, ông làm một chúc thư để lại phân chia gia tài cho ba đứa con ông.
Gia tài của ông gồm có17 con trâu và 19 con heo. Theo chúc thư thì người con cả được 1/2, người con thứ được 1/3 và người con út được 1/9 đàn trâu. Còn heo thì con cả được 1/2 con, con thứ 1/4 và con út 1/5.
Trong chúc thư có dặn hai điều: Thứ nhất không được bán trâu và heo để lấy tiền chia, thứ nhì không được giết hại súc vật, nghĩa là để nguyên vẹn vậy mà chia.
Thật là chuyện rắc rối. Người con cả lên tiếng giành phần:
- Nửa đàn trâu 17 con và đàn heo 19 con, toàn là số lẻ làm sao mà chia.
Đến lượt người con thứ cũng càu nhàu:
- Phần tôi thì 1/3 đàn trâu là 5 con với 2/3 và 1/4 đàn heo tức 4 con với 3/4. Như vậy phải giết trâu với heo mới chia được, mà cha thì cấm giết...
Người con út cũng tỏ vẻ bực mình:
- Phần tôi thì 1/9 đàn trâu và 1/5 đàn heo như thế cũng chẳng chia quái gì được, trừ phi xả thịt nó ra.
Tuy gặp sự rắc rối như vậy, cả ba anh em không ai chịu nhân nhượng ai, triệt để giữ đúng các phần ăn trong chúc thư, không ai ưng chịu sửa đổi một khoảng nào.
Ban đầu còn bàn bạc nhỏ nhẹ với nhau, thét rồi sanh ra cãi vã to tiếng với nhau. Cuối cùng người con Cả đề nghị:
- Trong nhà phân xử không xong vậy cứ nhờ người ngoài phân xử vậy.
Cả ba dắt tới nhà một ông đồ nho giỏi về xử lý.
Lúc bấy giờ ông đồ đang ngồi xem sách chợt thấy ba anh em kéo tới biết có rắc rối về chuyện chia phần ăn nên bảo:
- Ừ, nếu các anh đem việc này tới cửa công thì tốn kém rất nhiều, còn với tôi, chỉ lấy chút đỉnh công lao thôi. Vậy các anh định phần công lao của tôi bao nhiêu?
Sao một hồi bàn tính, họ dành phần ông đồ ba con heo.
Tảng sáng hôm sau, ông đồ dắt một con trâu và một con heo đến nhà ba anh em con người lái buôn, rồi thả hai con vật này nhập vào bầy trâu và heo. Xong rồi, ông gọi tất cả ba anh em đến hỏi:
- Bây giờ trong chuồng có bao nhiêu con trâu vậy các chú?.
Cả ba trả lời 18 con. Ông đồ hỏi:
- Này chú Hai, phần của chú bao nhiêu?
- Thưa một nửa đàn trâu tức là 9 con.
Ông đồ bảo:
- Vậy chú hãy vào dắt 9 con của chú đi.
Người thứ hai mừng rỡ vào thấp thỏm sợ ông đồ biết về phần lợi của mình, đúng lẽ thì chỉ 8 con và một phần hai con chớ không được tron 9 con.
- Quay sang chuồng heo, ông đồ hỏi tiếp:
- Bây giờ có cả thảy bao nhiêu heo vậy chú?
- Dạ 20 con.
- Phần của chú Hai bao nhiêu?
Người thứ Hai đáp:
- Nửa đàn là 10 con.
Ông đồ ra lệnh:
Chú hãy dắt đủ 10 con nhưng trừ con của tôi lại.
Người thứ hai lấy đủ phần của mình rồ lật đật đem trâu và heo về nhà, chỉ để lại cho ông một con heo phần công lao.
Giờ đến lượt người con thứ ba:
- Thưa cụ tôi được 1/3 vậy cụ chia cho.
Ông đồ hỏi.
- Một phần ba của đàn trâu 18 con là bao nhiêu vậy chú Ba?
- Dạ 6 con.
- Được rồi, chú mau vào chuồng dắt 6 con của chú ra, nhưng nhớ để con có dấu của tôi lại. À còn heo chú được mấy phần?
- Thưa 1/4 tức là 5 con.
- Vậy chú cứ bắt 5 con, nhớ để cho tôi một con heo phần công lao nhé.
Người con thứ cũng như con trưởng lật đật đem phần ăn đi không cần bàn cãi gì nữa cả.
Đến lượt người con út, ông đồ hỏi:
- Này chú, chú được bao nhiêu phần trâu và heo.
Người này đáp:
- Dạ 1/9 đàn trâu và 1/5 đàn heo.
Ông đồ tính toán xong liền bảo:
- Chú hãy vào chuồng dắt hai con trâu và hai con heo, nhưng nhớ để tôi một con heo phần công lao.
Người con út cả mừng vì đúng lẽ anh chỉ được 3 con và 4/5 thôi, thế mà được những 4 con thì có lợi vô cùng. Trong khi ấy ông đồ trở về nhà với 1 con trâu và 3 con heo, tất nhiên là ông cũng có lợi.
Bạn đọc sẽ ngạc nhiên tự hỏi: trong ba phần gia tài, kẻ được chia đều hưởng quá số lợi của mình tưởng tượng, nên cả thảy đều mừng, vậy đâu là phần thiệt hại?
Không có gì khó hiểu cả, người có lợi trong vụ này chính là ông đồ chớ không phải ba anh em nhà kia. Ông đem tới 1 trâu và 1 heo là cốt làm cho phần chia đúng vào các con số đã trù tính, nhưng ông đã khôn ngoan giữ lại 1 con trâu và 1 con heo của ông mang tới, thêm vào đó hai con heo phần công lao. Hai con heo này đã rút ngay trong ba phần gia tài, lẽ tất nhiên nếu ba anh em nhà không tranh chấp thì 2i con heo này không lọt ra ngoài vậy.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 5:34 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Chiếc Hũ Thần Diệu
Ngày xưa có hai anh em nhà kia, người anh nhờ buôn bán nên giàu có, em làm nghề đốn củi nên chỉ đắp đủ qua ngày. Tết đến, người em túng thiếu không tiền làm cỗ cúng ông bà, mới sang nhà anh nài nỉ, người anh chỉ thí cho một giò lợn luộc rồi đuổi về.
Người em mang chiếc giò lợn luộc đi ngang một cánh rừng, bỗng nghe tiếng rên rỉ thảm thương, liền tìm đến nơi thì thấy một lão tiều phu bị cây ngã đè qua chân nằm kêu la than khóc. Động mối từ tâm, người em khuân lấy cội cây bỏ đi nơi khác vào đỡ lão tiều phu dậy, định biếu chiếc giò lợn luộc cho ông đỡ lòng. Cảm lòng tốt của nguời em, lão tiều phu từ chối và bảo:
- Ta muốn đáp lại tấm lòng tốt của ngươi, vậy ngươi hãy đem chiếc giò lợn này đến cái động đá đằng kia để gặp các sơn thần, nếu họ đòi đổi giò heo lấy ngọc vàng thì ngươi đừng chịu, phải xin đổi cho được cái hũ sành. Đó là cái hũ thần ước gì được nấy, nhưng đừng nên tham lam, chỉ ước đủ dùng thôi và cần nhất phải giúp đỡ những người nghèo khó, khi nào vừa đủ thì phải hô to: "Đủ rồi" thì tự nhiên miệng hũ đóng lại.
Nghe lời dặn dò của lão tiều phu, người em tìm tới động đá, quả nhiên thấy rõ các vị sơn thần nhảy múa vui đùa. Lúc bấy giờ các vị sơn thần đánh hơi được mùi lợn quay nhìn lại thấy người em thập thò ngoài động đá liền gọi vào bảo đổi giò heo lấy vàng ngọc, người em nhất định không chịu, chỉ nhận đổi cái hũ sành. Rốt cuộc các sơn thần phải đem hũ sành đổi lấy giò heo.
Bấy giờ người em sung sướng đem cái hũ sành về nhà khoe với vợ. Rồi vợ chồng ước gì được nấy, chẳng mấy chốc vợ chồng người em trở nên giàu sang sung sướng, họ ước thêm vàng bạc rồi đem chia chác cho những người nghèo khó trong làng. Tiếng đồn người em có cái hũ thần loan ra khắp nơi, người anh liền tìm đến tận nhà để xem hư thật, quả đúng như lời thiên hạ đồn. Người anh động lòng tham bảo em đổi cái hũ sành lấy cả sản nghiệp của mình. Biết rằng người anh tham lam keo cú, nếu được cái hũ thần sẽ ham sự giàu sang quên điều nhân nghĩa, nên người em từ chối không chịu đổi chác với anh.
Tuy nhiên, người anh vẫn không bỏ qua giấc mộng làm chủ cái hũ sành, mới mưu mẹo, nhờ đứa ở của người em đánh cấp cái hũ thần rồi vợ chồng người anh trốn lên thuyền đi ra miền biển.
Giữa lúc đó người anh nghe các nơi thiếu muối nếu có nhiều muối đem bán chắc được nhiều tiền, nên đem hũ thần ra ước, muối từ trong hũ tràn ra như nước chảy, chẳng mấy chốc mà đầy cả thuyền. Ngặt vì người anh chỉ biết có lời ước được muối, còn lời ước cho nắp hũ đống lại thì không biết, nên muối chảy hoài như nước tràn đê vỡ làm ngập cả thuyền rồi chìm luôn. Cả hai vợ chồng người anh đều chết đắm giữa biển khơi.
Vì không có ai biết ước nắp hũ thần đống lại, thành ra muối tuôn chảy khắp đai dương hòa tan trong nước, làm nước biển mặn như ngày nay.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 5:38 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Cái Sọt
Ngày xửa ngày xưa ở một làng kia có một gia đình nghèo khó. Nhà có bốn người: hai vợ chồng, đứa con trai nhỏ tuổi và ông bố chồng đã già. Năm tháng ròng rã, ông bố phải làm lụng vất vả, giờ đây đã quá già yếu không còn cất nhắc được việc gì. Vì vậy ông phải hoàn toàn sống dựa vào con trai và nàng dâu. Họ coi ông là một gánh nặng.
Ngày tháng trôi qua, ông già càng ngày càng trở thành mối lo ngại cho họ. Ông cụ cần được chăm sóc nhiều. Nhưng cả nàng dâu lẫn con trai đều không đỡ đần ông gì cả. Ông phải ăn những thức ăn thừa và mặt bất cứ thứ quần áo cũ nào. Ông luôn luôn bị đói và rét. Lắm khi đứa cháu trai quá xót xa ông nội, đã sẻ phần thức ăn riêng của nó cho ông. Nhưng mỗi khi trông thấy thế bố mẹ nó lại rầy la và cấm nó không được phung phí thức ăn ngon.
Ông già rất đau khổ về cách cư xử của hai vợ chồng đứa con, ông thường than phiền oán thán. Nhưng đáng
lẽ phải tìm cách an ủi ông, hai vợ chồng nhà ấy vẫn thường lập lại cho
nhau nghe câu phương ngôn cổ "Bò già sa vó, ông bọ sẩy mồm".
Sự việc này ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ông già càng làm om sòm bao
nhiêu thì nàng dâu với con trai ông càng khó chịu bấy nhiêu. Cuối cùng,
họ không thể chịu đựng nổi ông già nữa. Chúng bí mật bàn mưu tính kế tống khứ ông già đi. Chúng định mang ông đến một nơi thật xa, và bỏ ông ở đó. Người chồng cho biết hắn sẽ ra chợ mua một cái sọt bằng tre cứng cáp đơn sơ để bỏ ông vào đó mang đi.
- Ta sẽ mang ông lão đến một nơi thật xa, khiến ông lão không còn lần ra đường về. Ta sẽ bỏ ông lão dưới gốc cây sát lề đường đi. Thế rồi có thể có người cảm thấy xót thương mà đưa ông lão về nuôi. - Người chồng bàn tính.
- Nhưng còn đối với bà con hàng xóm thì sao?
- Người vợ nói.
- Chẳng bao lâu họ sẽ biết ông cụ không còn ở đây nữa. Chúng ta phải ăn nói với họ như thế nào khi họ hỏi?
- Thì cứ nói rằng ông cụ đòi đến vùng đất thánh, ở đấy ông cụ có thể sống yên ổn cho đến lúc chết.
- Người chồng trả lời.
Thế là họ sắp định âm mưu. Nhưng họ không biết rằng đứa con nghe lỏm được câu chuyện họ bàn tính với nhau. Ngay khi cha nó vứa đi chợ mua sọt nó hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Tại sao bố lại vứt bỏ ông đi?
- Không! không!
- Mẹ nó vội vàng trả lời.
- Chúng ta không định vứt bỏ ông đâu! Dĩ nhiên là chúng ta không làm thế. Con xem, ở đây chẳng có ai chăm sóc ông được chu đáo, bởi vì cả cha con và mẹ đều tất bật làm lụng suốt ngày. Do đó cha con định đưa ông nội đến một nơi ông được chăm nom tử tế hơn thôi.
- Chỗ ấy là ở đâu vậy mẹ? Đứa con hỏi.
- Ồ, xa lắm, xa lắm. Đó là một nơi con chẳng thể nào biết được.
- Thế ai sẽ đến chăm sóc ông?
- Con không phải lo. Có rất nhiều người hảo tâm sẽ chăm sóc ông. Người mẹ nói để đứa con yên tâm.
Chiều tà, người chồng về mang theo một chiếc sọt lớn. Không muốn cho hàng xóm biết chuyện mình làm, anh ta đợi đến tận đêm, khi trời tối mịt mới đặt ông bố vào cái sọt.
- Con định làm gì thế này? Ông già hoảng hốt hỏi con. Con đặt ta vào trong cái sọt này mang đi đâu?
- Thưa bố, bố biết đấy, hai vợ chồng nhà con chẳng thể chăm nom bố được nữa. Vì vậy con định đưa bố lên miền đất thánh, ở đấy bố sẽ được mọi người đối xử tốt hơn. Người con đáp.
Nhưng ông già không bị mắc lừa. Ông hiểu ngay vợ chồng nhà ấy định làm gì ông.
- Đồ bất hiếu!
- Ông quát: Thử nhẩm xem, bao nhiêu năm qua tao nuôi màcho đến ngày khôn lớn. Và bây giờ thì mày trả nghĩa cho bố mày như thế đấy!
Ông bắt đầu hét to, chửi mắng con trai và nàng dâu.
Con trai nổi giận. Anh ta giật một cái, nâng phốc cái sọt lên lưng, xăm xăm đi ra khỏ nhà.
Đứa cháu nhỏ im lặng theo dõi tất cả mọi việc xảy ra. Vừa hay khi cha nó sắp khuất dạng trong đêm tối, nó gọi to bảo cha nó:
- Bố ơi! Bố ơi! Khi nào bố đem vứt ông xong, bố nhớ giữ cái sọt cẩn thận và mang nó về cẩn thận nhé!
Bối rối trước câu nói của con, anh ta dừng bước, ngoảnh lại hỏi:
- Để làm gì hả con?
Đứa bé ngây thơ trả lời:
- Nhà ta còn cần đến cái sọt to ấy để khi nào bố già con mang vứt bố đi!
Nghe đứa bé nói, chân anh ta đâm loạng choạng. Không biết làm sao, anh ta chẳng thể bước thêm một bước nào nữa. Thế là anh ta quay lại và đưa người bố già trở về nhà.
Ngày xửa ngày xưa ở một làng kia có một gia đình nghèo khó. Nhà có bốn người: hai vợ chồng, đứa con trai nhỏ tuổi và ông bố chồng đã già. Năm tháng ròng rã, ông bố phải làm lụng vất vả, giờ đây đã quá già yếu không còn cất nhắc được việc gì. Vì vậy ông phải hoàn toàn sống dựa vào con trai và nàng dâu. Họ coi ông là một gánh nặng.
Ngày tháng trôi qua, ông già càng ngày càng trở thành mối lo ngại cho họ. Ông cụ cần được chăm sóc nhiều. Nhưng cả nàng dâu lẫn con trai đều không đỡ đần ông gì cả. Ông phải ăn những thức ăn thừa và mặt bất cứ thứ quần áo cũ nào. Ông luôn luôn bị đói và rét. Lắm khi đứa cháu trai quá xót xa ông nội, đã sẻ phần thức ăn riêng của nó cho ông. Nhưng mỗi khi trông thấy thế bố mẹ nó lại rầy la và cấm nó không được phung phí thức ăn ngon.
Ông già rất đau khổ về cách cư xử của hai vợ chồng đứa con, ông thường than phiền oán thán. Nhưng đáng
lẽ phải tìm cách an ủi ông, hai vợ chồng nhà ấy vẫn thường lập lại cho
nhau nghe câu phương ngôn cổ "Bò già sa vó, ông bọ sẩy mồm".
Sự việc này ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ông già càng làm om sòm bao
nhiêu thì nàng dâu với con trai ông càng khó chịu bấy nhiêu. Cuối cùng,
họ không thể chịu đựng nổi ông già nữa. Chúng bí mật bàn mưu tính kế tống khứ ông già đi. Chúng định mang ông đến một nơi thật xa, và bỏ ông ở đó. Người chồng cho biết hắn sẽ ra chợ mua một cái sọt bằng tre cứng cáp đơn sơ để bỏ ông vào đó mang đi.
- Ta sẽ mang ông lão đến một nơi thật xa, khiến ông lão không còn lần ra đường về. Ta sẽ bỏ ông lão dưới gốc cây sát lề đường đi. Thế rồi có thể có người cảm thấy xót thương mà đưa ông lão về nuôi. - Người chồng bàn tính.
- Nhưng còn đối với bà con hàng xóm thì sao?
- Người vợ nói.
- Chẳng bao lâu họ sẽ biết ông cụ không còn ở đây nữa. Chúng ta phải ăn nói với họ như thế nào khi họ hỏi?
- Thì cứ nói rằng ông cụ đòi đến vùng đất thánh, ở đấy ông cụ có thể sống yên ổn cho đến lúc chết.
- Người chồng trả lời.
Thế là họ sắp định âm mưu. Nhưng họ không biết rằng đứa con nghe lỏm được câu chuyện họ bàn tính với nhau. Ngay khi cha nó vứa đi chợ mua sọt nó hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Tại sao bố lại vứt bỏ ông đi?
- Không! không!
- Mẹ nó vội vàng trả lời.
- Chúng ta không định vứt bỏ ông đâu! Dĩ nhiên là chúng ta không làm thế. Con xem, ở đây chẳng có ai chăm sóc ông được chu đáo, bởi vì cả cha con và mẹ đều tất bật làm lụng suốt ngày. Do đó cha con định đưa ông nội đến một nơi ông được chăm nom tử tế hơn thôi.
- Chỗ ấy là ở đâu vậy mẹ? Đứa con hỏi.
- Ồ, xa lắm, xa lắm. Đó là một nơi con chẳng thể nào biết được.
- Thế ai sẽ đến chăm sóc ông?
- Con không phải lo. Có rất nhiều người hảo tâm sẽ chăm sóc ông. Người mẹ nói để đứa con yên tâm.
Chiều tà, người chồng về mang theo một chiếc sọt lớn. Không muốn cho hàng xóm biết chuyện mình làm, anh ta đợi đến tận đêm, khi trời tối mịt mới đặt ông bố vào cái sọt.
- Con định làm gì thế này? Ông già hoảng hốt hỏi con. Con đặt ta vào trong cái sọt này mang đi đâu?
- Thưa bố, bố biết đấy, hai vợ chồng nhà con chẳng thể chăm nom bố được nữa. Vì vậy con định đưa bố lên miền đất thánh, ở đấy bố sẽ được mọi người đối xử tốt hơn. Người con đáp.
Nhưng ông già không bị mắc lừa. Ông hiểu ngay vợ chồng nhà ấy định làm gì ông.
- Đồ bất hiếu!
- Ông quát: Thử nhẩm xem, bao nhiêu năm qua tao nuôi màcho đến ngày khôn lớn. Và bây giờ thì mày trả nghĩa cho bố mày như thế đấy!
Ông bắt đầu hét to, chửi mắng con trai và nàng dâu.
Con trai nổi giận. Anh ta giật một cái, nâng phốc cái sọt lên lưng, xăm xăm đi ra khỏ nhà.
Đứa cháu nhỏ im lặng theo dõi tất cả mọi việc xảy ra. Vừa hay khi cha nó sắp khuất dạng trong đêm tối, nó gọi to bảo cha nó:
- Bố ơi! Bố ơi! Khi nào bố đem vứt ông xong, bố nhớ giữ cái sọt cẩn thận và mang nó về cẩn thận nhé!
Bối rối trước câu nói của con, anh ta dừng bước, ngoảnh lại hỏi:
- Để làm gì hả con?
Đứa bé ngây thơ trả lời:
- Nhà ta còn cần đến cái sọt to ấy để khi nào bố già con mang vứt bố đi!
Nghe đứa bé nói, chân anh ta đâm loạng choạng. Không biết làm sao, anh ta chẳng thể bước thêm một bước nào nữa. Thế là anh ta quay lại và đưa người bố già trở về nhà.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 5:44 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Chàng Lía
Ngày xưa ở một làng nọ có vợ chồng người làm vườn nghèo khổ, sinh được một đứa con trai đặt tên là Lía. Cha qua đời, Lía còn nhỏ tuổi chịu cảnh mồ côi cha. Thường ngày Lía theo mẹ bắt ốc hái rau để sống. Lúc lên mười tuổi, mẹ Lía đem Lía đợ cho một người nhà giàu trong vùng để chăn trâu.
Thấy mẹ ăn uống cực khổ, Lía mới trộm gà của chủ đem về làm thịt cho mẹ ăn. Mẹ Lía biết chuyện rầy la dữ lắm, Lía mới thôi không ăn trộm gà nữa.
Thường ngày, Lía đuổi trâu ra đồng để mặc trâu đi đâu thì đi, còn Lía tụ tập vài ba đứa trẻ hoang, hết bày việc đáng nhau bằng gậy gộc, lại rủ nhau đi trộm bầu trộm bí, khoai lang, củ sắn.
Một lần nọ, thằng Lía để trâu lạc vào vườn của nhà phú hộ làng bên cạnh. Ông phú hộ truyền bắt trâu cột lại để bắt đền kẻ để trâu đến phá vườn ông.
Bị mất trâu, thằng Lía không dám về nhà, nó rủ thằng Hung và thằng Hoang đi tìm. Tình cờ nó nhìn được con trâu trong nhà ông phú hộ. Nó liền bàn kế hoạch với hai thằng bạn của nó, đốt nhà ông phú hộ, để mọi người lo cứu chữa, bấy giờ nó lẽn vào bắt trâu đem về cho chủ.
Chủ hay được, sợ liên lụy, nên đuổi thằng Lía đi. Nó trở về sống với mẹ già, và xin với mẹ nó cho nó đi học. Mẹ nó phải van lạy ông thầy để cho nó được học. Nó rất tối dạ, lại hay sinh sự đánh nhau, nên thầy học không dám dạy nó nữa. Thằng Lía liền hợp với thằng Hung, thằng Hoang và vài đức trẻ ngỗ nghịch đi bắt trộm gia súc của người giàu trong làng, rồi đem về chia cho người nghèo. Hành động của thằng Lía càng ngày càng lộng, người trong làng mới hiệp nhau để đấu cáo với quan trên. Làng lính liền tìm bắt Lía. Nó hoảng sợ trốn lên tỉnh, được một viên đột
tâm phúc của quan tỉnh thâu nhận là thuộc hạ. Lía bèn học tập côn quyền
võ nghệ. Càng lớn lên, Lía cang có sức mạnh hơn người. Tánh nghĩa hiệp
nên gặp chuyện bất bình là xông vào can thiệp, vì vậy giữa Lía và bọn
cường hào ác bá thường có những trận gây gổ đánh nhau.
Năm đó có mở khoa thi, những ai giỏi luồn cúi hoặc có tiền đút lót thì được đỗ, bằng không thì bị đánh hỏng dù văn hay chữ tốt. Tuy học hành dở dang, Lía cũng vào thi, nhân thấy bọn tham quan bắt nạt, ngược đãi kẻ nghèo nàn, Lía vô cùng bất bình. Thừa đêm tối, cùng đám bạn lẻn vào nhà viên chủ khảo giết chết người này rồi trốn vào rừng.
Quan quân mở cuộc truy nã ráo riết. Lía chiêu tập đám người vô nghề nghiệp lẩn lút trong rừng chống lại quan quân. Nhiều trận hai bên giáp chiến giữ dội, quan quân đại bại phải rút lui. Lía đem bộ hạ tràn ra làng xóm chiếm đoạt tài sản của người giàu đem cho người nghèo. Thanh thế càng ngày càng to. Triều đình phải treo giải thưởng cho ai bắt sống hoặc giết chết được thằng Lía. Nhưng Lía giỏi lẩn trốn, thành ra quan quân phải bắt mẹ của Lía đem ra thị oai. Nếu thằng Lía không chịu ra nạp mình thì mẹ nó bị giết. Động lòng hiếu để, thằng Lía phải chịu nạp mình cho mẹ được tha. Nhưng chẳng bao lâu Lía trốn thoát.
Bấy giờ, Lía phải trốn tránh rất là cực khổ, đói khát nhiều ngày. Bất đắc dĩ, Lía phải cải trang sửa dạng trốn vào trong thành để
kiếm sống. Quan quân dò xét biết liền bao vây lấy thành mở cuộc lục xét
khắp nơi. Lía trốn vào một nhà ông lão hiền lành. Lúc này, Lía nghe tin
mẹ mình bị bệnh mà chết, các bộ hạ lớp bị bắt, lớp bị giết thì đau
lòng, không thiết gì sống nữa. Một hôm, Lía nói với ông lão rằng: "Chưa
bao giờ tôi bị thất bại chua cay như lần này. Có lẽ trời đã hại tôi. Vậy ông hãy chặt lấy đầu tôi đem nạp cho quan trên để lãnh thưởng, chỉ còn cách đó để tôi đền đáp ơn ông".
Ông lão không bằng lòng. Lía tự trói mình để cho ông đem nạp quan trên. Thế rồi Liá bị đem ra trảm huyết.
Đến sau có câu hát cảm thương Lía như vầy.
Chiều chiều én liệng
Truông Mây,
Cảm thương chú Lía
bị vây trong thành.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 6:38 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Anh Chàng Rể Khờ
Xưa kia có anh trai tráng nọ quá khờ khạo, vì nhà túng bấn nên anh ta sẵn sàng ở rể, giúp việc cho gia đình bên vợ.
Anh ta than phiền với bà mai dong:
- Khó quá. Về nhà cha vợ, tôi phải xử sự ra sao đây? Không khéo lại mất vợ.
Bà mai dong đáp:
- Dễ quá. Mọi việc đều xong xuôi. Anh hãy về giúp đỡ gia đình bên vợ, trông coi mọi việc.
- Nghĩa là làm sao?
- Hễ thấy cha vợ làm bất cứ công việc gì dù nặng nhẹ, anh phải ra sức làm y như vậy để giúp đỡ.
Chàng rể vô cùng mừng rỡ:
- Vậy thì dễ quá. Tôi xin tuân theo lời dạy.
Hôm nọ, sau khi ăn cơm xong, người cha vợ xách búa ra vườn đốn cây. Chàng rễ cũng lật đật xách búa đi theo.
Đến vườn, cha vợ huơ búa chặt vào cây.
Chàng rể sực nhớ lời bà mai dong, liền chạy đến bên cạnh cha vợ mà thưa:
- Để con đốn cây này giúp cha.
Người cha vô cùng mừng rỡ, bỏ gốc cây ấy qua đốn cây khác ở kế bên.
Nhưng chàng rễ lại ngây ngô chạy đến thưa:
- Để con đốn cây này.
Người cha liền qua gốc cây khác, chàng rể vẫn tiếp tục xách búa đến chàng ràng. Rốt cuộc cả hai, cha vợ và chàng rể chẳng đốn xong cây nào cả.
Thế là người cha vợ tức giận, xách búa ra đi phía xa hơn. Ngạc nhiên làm sao, chàng rể lại đi theo bén gót. Người cha vợ sinh nghi:
- Hay là nó nổi cơn điên rồi? Rủi bề gì, nó dám vác búa chém mình.
Thế là người cha vợ chạy một mạch. Chàng rể lại chạy theo, chiếc khăn vấn đầu của người cha bị tuột xuống đất. Người cha vợ càng hoảng sợ, té sấp rồi lồm cồm ngồi dậy, phía sau, chàng rể lại giả bộ té.
Về đến nhà, người cha vợ bèn đấm vào vai vợ mình mà báo nguy:
- Má bầy trẻ ơi! Thằng rể nhà mình nó phát điên rồi. Chạy nhanh, kẻo nó chém.
Ngờ đâu, chàng rể cũng bắt chước cha vợ đấm vào vai của bà mẹ vợ mình một đấm đau điếng.
Cha vợ và mẹ vợ hoảng hốt chạy ra khỏi nhà loay hoay bên gốc cây, nhưng chàng rể... hăng máu nọ vẫn bắt chước đến gốc cây. Rốt cuộc hai ông bà té nhào xuống mương, la inh ỏi, kêu cứu với chòm xóm.
Chàng rể lại nhảy xuống mương, la inh ỏi theo.
Hàng xóm chạy lại, bắt chàng rể để hạch hỏi duyên cớ. Bấy giờ ai nấy mới hiểu: anh ta chẳng có ác ý gì cả mà trái lại chỉ muốn giúp đỡ cha mẹ vợ... theo lời bà mai dong.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Chưa Đỗ Ông Nghè Đã Đe Hàng
Tổng
Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên Đình rất chú ý. Trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu chiến sĩ, làm quan đến Thượng Thư. Mỗi lần anh đi học thường qua một ngôi đền thờ thần ở làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung kính đối với người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì tượng thần đang ngồi trên bệ lật đật đứng dậy rất lễ phép.
Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo:
- Ngày mai ngươi phải quét dọn đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến chơi nhà ta.
Người từ làm y như lời và suốt ngày hôm ấy hắn đứng chực ở cổng đền chờ đón vị khách quí của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn ta chả thấy một ai cả, trừ anh học trò nghèo xác nói trên ngày hôm đó vô tình có ghé vào đền nghỉ chân một lúc. Người từ cho là thường nên không để ý gì đến.
Ít lâu sau người từ cũng lại chiêm bao thấy ông thầy dặn dò như trước.
Lần này, hắn cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò nghèo hôm nọ đến đây ngâm một bài phú rồi lại đi.
Nhưng hắn vẫn không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bấy giờ người từ mới
cho quả phù hợp với lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nghe
và bảo:
- Đã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan to chứ chẳng chơi.
- Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh ta quyết chắc cầm
sự vinh hoa phú quí trong tay. Hắn nghĩ ngợi rất nhiều về tương lai của
mình. Một hôm, khi ngắm lại nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tí nào cả. Thế rồi đêm hôm ấy nằm dưới bóng trăng hắn mơ tưởng một người đẹp như chị Hằng. Hắn bụng bảo dạ:
- Rồi ta sẽ cho vợ ta về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiếu gì nơi ngấp nghé muốn làm bà. Lúc đó ta tìm những đám con vua cháu chúa, đã da trắng moi son lại còn lắm của.
Nghĩ thế, qua ngày hôm sau hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ một người có học như hắn lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy mà không kể gì dư luận.
Một hôm khác có người đến đòi nợ hắn. Vừa mới bước vào sân, người ấy đã bị hắn chỉ tay vào mặt mắng cho một trận:
- Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày cho mày biết mặt.
Hắn còn đe dọa nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói: "Rồi chúng mày sẽ biết tay ông!"
Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về Thiên Đình. Ngọc Hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đó, người từ giữ đền lại nằm thấy ông thần tin cho biết là không phải kính sợ đối với người học trò nữa vì trên Thiên Đình đã tước sổ mất rồi, không cho đỗ đạt. Ông từ hỏi:
- Tội của nó như thế nào?
- Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa.
Quả nhiên người học trò ấy từ đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu tục ngữ "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng".
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Chuyện Ông Địa
Làng
Bình Sùng có gốc cây da to. Kế bên là miếu thờ ông Địa. Dân làng đồn rằng ông địa này linh lắm, nên họ hằng tới lui cúng kiến, khấn vái. Họ phải lãng phí rất nhiều tiền bạc để mua gà vịt, nhang đèn.
Có một anh nọ không tin như vậy, thề không bao giờ cúng vái ông Địa. Lắm khi đi
ngang qua miếu, anh nói giả ngộ: "Ông Địa ơi! Có rảnh chiều nay lại nhà
uống rượu với tôi chơi!". Ai rầy la cũng mặc, anh không bỏ thói đó.
Hôm nọ, bỗng dung anh lăn ra ôm bụng mà rên la dữ dội. Vợ anh chạy thuốc đủ điều mà bệnh không thuyên giảm. Sau cùng có người bàn nói:
- Chắc là chồng chị bị ông Địa quở, chị lén ra miếu van vái, xin tạ lỗi thử coi!
Y như lời, Vợ anh đem nhang đèn ra miễu vái lạy. Về tới nhà, anh nọ đã hết đau.
Bữa sau, chị vợ khuyên chồng làm thịt heo trả lễ ông Địa. Anh đỗ quạu:
- Ai biểu mình vái. Ông Địa cứu tôi, đó là bổn phận của ổng. Ơn nghĩa gì.
Hôm sau, anh nọ phát đau dữ dội lần nữa.
Xóm giềng bàn tán:
- Chắc ông Địa quở rồi! Hôm trước có hứa, sau không chịu cúng heo cho ổng.
Chị vợ ra miễu khấn vái. Chập sau, anh cũng hết đau. Vì vậy, hôm sau chị cương quyết làm thịt heo cúng. Nghe vậy, anh cãi lại:
- Để tôi lo cho. Mình phải giao con heo sống nhăn này cho ổng. Nấu nướng trước, sợ ông ăn không vừa miệng.
Rồi anh cột dây, dắt con heo ra miễu, cột chặt con heo vào cốt ông Địa.
Tới trưa, heo đói bụng bèn lôi cốt ông Địa về nhà. Xóm giềng hoảng sợ. Song anh nọ tỉnh táo đem cốt nọ tắm sạch sẽ rồi ôm ra miễu trả lại chỗ cũ.
Thấy anh nọ quá ngoạo mạn dễ ngươi, ông Địa quyết răn dạy anh một phen đích đáng hơn mấy lần trước nên đến bà Cửu Thiên Huyền Nữ mượn cái kim cô đem về. Báo vật này giống như cái niền, hễ trồng cái kim cô vào đầu ai thì kẻ đó phải đao đớn khôn tả, cái niền xiết vào đầu ngày một chặt, đến bể sọ.
Hôm sau anh nọ bỗng nhiên la lên nhức đầu nhào lộn xuống đất. Không ai biết cách nào cứu trị. Có người khuyên nên vái ông Địa. Chị vợ khóc lóc:
- Vái rồi chừng lành không chịu tạ ơn! Ai dám vái nữa.
Kẻ khác bèn nói:
- Chắc chồng chị tiếc con heo, vậy thì vái gà vịt thế nào cũng được.
Đầu anh nọ càng nhức thêm. Túng thế anh vái:
- Ông địa cho tôi hết nhức đầu, tôi cúng cho ông...
Tới đây
anh không biết hứa cúng vật gì cho gọn. Thấy anh quá bón xén, ông Địa
bèn niệm thần chú cho cái kim cô nọ siết gắt hơn. Vì quá đau, anh nổi giận thét lớn:
- Mình đưa cái búa lớn cho tôi. Để tôi bửa óc tôi ra coi cái gì ở trỏng mà nhức nhối mà hành hạ quá vậy?
Biết anh nọ gan dạ; ông Địa sợ anh bửa ra thiệt. Nếu vậy, cái kim cô của bà Cửu Thiên Huyền Nữ phải đứt, uổng bửu bối nọ quá, phải bồi thường. Ông bèn thâu lại cái kim cô về miếu.
Từ đó, anh nọ không còn đau bụng nhức đầu gì nữa. Xóm giềng cũng bớt tinh dị đoan cúng vái lặt vặt hao tài tốn công vô lý như trước.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Quỷ Nhập Tràng
Thuở trước, có bảy người đàn ông làm lái buôn, cùng một chuyến lên mạn ngược cất hàng, vì lỡ độ đường, nên phải xin ngủ nhờ trong nhà một người Kinh lên lập nghiệp ở mạn ngược đã lâu.
Vào xin ngủ nhờ, bảy người lái buôn được chủ nhà cho biết: Trong nhà chỉ có hai vợ chồng, người vợ bị cảm nặng nằm ở trong buồng, còn người chồng phải ra đi tìm thuốc ở nơi xa, về đến nơi cũng đúng sáng mai. Tuy vậy, không thể làm cách nào khác hơn, chủ nhà vẫn phải ra đi, giao nhà cho bảy người lái buôn trông nom hộ.
Chủ nhà ra đi, trời cũng vừa sập tối, bảy người lái buôn cơm nước vào no nê rồi, quây quần bên nhau để
ngủ. Vào khoảng gần sáng, người lái buôn nằm ngoài bìa hết bỗng cựa
mình thức dậy vì một luồng gió lạnh luồn vào nhà.Y lơ láo nhìn vào phía
trong, thấy cửa buồng của vợ chủ nhà mở trống, ngọn đèn dầu trong buồng đang nhỏ như hột đậu xanh bỗng phựt lên sáng rỡ rồi nhỏ lại dần.
Ngay lúc đó, người lái buôn chợt nghe tiếng điếu cày vang lên một nhịp đều đều, nhất là hơi rít cuối cùng nghe thật vui tai, tiếp theo đó là tiếng dép lẹp xẹp, rồi bất đồ bà chủ nhà vụt bước ra ngoài.
Càng đáng ngạc nhiên hơn nữa là người đàn bà này đến bên người lái buôn thứ nhất luồng hai tay xuống nhấc bổng y lên, như nhấc một miếng gỗ thường, đoạn người đàn bà ghé miệng vào mũi người lái buôn hít một hơi dài. Hít xong, lại đặt người đàn ông nằm xuống y như cũ, đoạn bước trở vào trong buồng.
Bên trong ngọn đèn dầu lại phựt lên sáng rỡ như hồi nãy rồi cũng lụn dần. Tiếng điếu cày lại vẳng lên từng chập. Độ năm phút sau người đàn bà lại hiện ra một lần nữa, bước ngay đến chỗ người lái buôn thứ hai, nâng đầu y dậy kê miệng vao mũi y hít một hơi dài như lần trước, rồi lại đứng lên quay bước trở vào buồng.
Người lái buôn nằm bìa ngoài hết sức ngạc nhiên, nhưng cố im lặng để xem cái hiện tượng kỳ quái này ra sao. Rồi cứ như lúc đầu, mỗi lượt đèn phựt sáng lên, tiếng điếu cày ròn rã, thì người đàn bà lại hiện ra, tái diễn cái cảnh tượng đã diễn ra từ nãy, lần lượt đến người lái buôn thứ sáu.
Người thư bảy, bị trống ngực đánh thình thình, nhưng vẫn nằm im không dám cục cựa. Nhưng lúc người đàn bà vừa quay đi, anh chàng sẽ rờ vào mình bạn thì thấy da thịt lạnh tanh như xác chết. Anh ta hoảng hồn, vùng ngồi phắt dậy. Người đàn bà nghe tiếng động quay lại nhìn, anh khiếp đảm quá thét lên một tiếng cắm đầu chạy ra cửa, nhảy từng bậc thang mà xuống khỏi căn nhà sàn chạy tuốt ra đường.
Càng kinh khủng hơn, là người đàn bà tức tốc đuổi theo, anh ta càng chạy, người đàn bà càng cố đuổi cho kịp. Cái lạ lùng nhất là anh ta càng chạy nhanh người đàn bà càng đuổi nhanh, anh ta chạy chậm người đàn bà cũng chạy chậm.
Trời dần dần hừng sáng, người đàn bà kỳ quái vẫn đuổi theo anh lái buôn thứ bảy chứ không chịu buông tha. Anh ta kinh hoảng quá rồi, chưa còn biết làm cách nào để thoát chết. Thời may, anh ta nom thấy bên đường có một cây gạo, thì chạy nhanh tới định trèo lên để trốn.
Bỗng anh ta nghe đằng sau có tiếng "phập phập" thật lớn, rồi thân cây rung chuyển, anh ta hốt hoảng vấp phải cái rể cây, ngã vật xuống ngất đi.
Mãi lúc mặt trời lên cao ba sào, người qua đường mới chợt thấy một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp: Ở gốc cây có người đàn ông nằm sóng soài còn thoi thóp thở, còn bên cạnh có xác một người đàn bà ngã sang một bên, cánh tay phải xỉa ngập vào thân cây gần đến khuỷu.
Họ cứu chữa cho người đàn ông tỉnh lại. Anh ta thuật rõ những điều nghe thấy trong đêm với mọi người. Chừng đó họ mới nói cho anh ta biết đám người lái buôn đã nhập quỷ nhập tràng. Căn nhà họ vào xin ngủ trọ có người đàn bà đã chết còn quàn xác lại, nên mới hiện hình hớp hồn sáu người kia, còn anh nhờ chạy trốn kịp nên mới thoát chết.
Thuở trước, có bảy người đàn ông làm lái buôn, cùng một chuyến lên mạn ngược cất hàng, vì lỡ độ đường, nên phải xin ngủ nhờ trong nhà một người Kinh lên lập nghiệp ở mạn ngược đã lâu.
Vào xin ngủ nhờ, bảy người lái buôn được chủ nhà cho biết: Trong nhà chỉ có hai vợ chồng, người vợ bị cảm nặng nằm ở trong buồng, còn người chồng phải ra đi tìm thuốc ở nơi xa, về đến nơi cũng đúng sáng mai. Tuy vậy, không thể làm cách nào khác hơn, chủ nhà vẫn phải ra đi, giao nhà cho bảy người lái buôn trông nom hộ.
Chủ nhà ra đi, trời cũng vừa sập tối, bảy người lái buôn cơm nước vào no nê rồi, quây quần bên nhau để
ngủ. Vào khoảng gần sáng, người lái buôn nằm ngoài bìa hết bỗng cựa
mình thức dậy vì một luồng gió lạnh luồn vào nhà.Y lơ láo nhìn vào phía
trong, thấy cửa buồng của vợ chủ nhà mở trống, ngọn đèn dầu trong buồng đang nhỏ như hột đậu xanh bỗng phựt lên sáng rỡ rồi nhỏ lại dần.
Ngay lúc đó, người lái buôn chợt nghe tiếng điếu cày vang lên một nhịp đều đều, nhất là hơi rít cuối cùng nghe thật vui tai, tiếp theo đó là tiếng dép lẹp xẹp, rồi bất đồ bà chủ nhà vụt bước ra ngoài.
Càng đáng ngạc nhiên hơn nữa là người đàn bà này đến bên người lái buôn thứ nhất luồng hai tay xuống nhấc bổng y lên, như nhấc một miếng gỗ thường, đoạn người đàn bà ghé miệng vào mũi người lái buôn hít một hơi dài. Hít xong, lại đặt người đàn ông nằm xuống y như cũ, đoạn bước trở vào trong buồng.
Bên trong ngọn đèn dầu lại phựt lên sáng rỡ như hồi nãy rồi cũng lụn dần. Tiếng điếu cày lại vẳng lên từng chập. Độ năm phút sau người đàn bà lại hiện ra một lần nữa, bước ngay đến chỗ người lái buôn thứ hai, nâng đầu y dậy kê miệng vao mũi y hít một hơi dài như lần trước, rồi lại đứng lên quay bước trở vào buồng.
Người lái buôn nằm bìa ngoài hết sức ngạc nhiên, nhưng cố im lặng để xem cái hiện tượng kỳ quái này ra sao. Rồi cứ như lúc đầu, mỗi lượt đèn phựt sáng lên, tiếng điếu cày ròn rã, thì người đàn bà lại hiện ra, tái diễn cái cảnh tượng đã diễn ra từ nãy, lần lượt đến người lái buôn thứ sáu.
Người thư bảy, bị trống ngực đánh thình thình, nhưng vẫn nằm im không dám cục cựa. Nhưng lúc người đàn bà vừa quay đi, anh chàng sẽ rờ vào mình bạn thì thấy da thịt lạnh tanh như xác chết. Anh ta hoảng hồn, vùng ngồi phắt dậy. Người đàn bà nghe tiếng động quay lại nhìn, anh khiếp đảm quá thét lên một tiếng cắm đầu chạy ra cửa, nhảy từng bậc thang mà xuống khỏi căn nhà sàn chạy tuốt ra đường.
Càng kinh khủng hơn, là người đàn bà tức tốc đuổi theo, anh ta càng chạy, người đàn bà càng cố đuổi cho kịp. Cái lạ lùng nhất là anh ta càng chạy nhanh người đàn bà càng đuổi nhanh, anh ta chạy chậm người đàn bà cũng chạy chậm.
Trời dần dần hừng sáng, người đàn bà kỳ quái vẫn đuổi theo anh lái buôn thứ bảy chứ không chịu buông tha. Anh ta kinh hoảng quá rồi, chưa còn biết làm cách nào để thoát chết. Thời may, anh ta nom thấy bên đường có một cây gạo, thì chạy nhanh tới định trèo lên để trốn.
Bỗng anh ta nghe đằng sau có tiếng "phập phập" thật lớn, rồi thân cây rung chuyển, anh ta hốt hoảng vấp phải cái rể cây, ngã vật xuống ngất đi.
Mãi lúc mặt trời lên cao ba sào, người qua đường mới chợt thấy một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp: Ở gốc cây có người đàn ông nằm sóng soài còn thoi thóp thở, còn bên cạnh có xác một người đàn bà ngã sang một bên, cánh tay phải xỉa ngập vào thân cây gần đến khuỷu.
Họ cứu chữa cho người đàn ông tỉnh lại. Anh ta thuật rõ những điều nghe thấy trong đêm với mọi người. Chừng đó họ mới nói cho anh ta biết đám người lái buôn đã nhập quỷ nhập tràng. Căn nhà họ vào xin ngủ trọ có người đàn bà đã chết còn quàn xác lại, nên mới hiện hình hớp hồn sáu người kia, còn anh nhờ chạy trốn kịp nên mới thoát chết.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Tú Xuất
Ngày xuất là người lanh lợi, nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong. Khi ấy có nhà nữ tu có tiếng; Trong ấy có người con gái lịch sự, xinh đẹp, người ta ai ai cũng biết. Anh em bạn biết ve nàng ấy thì khó lắm, không ai ve được; bữa ấy mới đố Tú Xuất là làm sao mà bắt nàng ấy ra cho được.
Tú Xuất chịu. Vậy mới tập trẻ hầu hạ, đứa kêu bằng chú, đứa kêu bằng bác, đưa kêu bằng cậu, đứa kêu bằng dượng, sắp đặt tử tế.
Tú Xuất mới viết thư cho người đem
vào thưa với bà sư cô coi nhà nữ tu ấy, mà xin bà ấy cho vợ mình lại,
rằng nàng ấy tên là ấy, thật là vợ mình, vì giận hờn nhau mà bỏ mình
lánh mình đi tu thôi. Nhứt diện xin với bà sư cô, nhứt diện đi thưa với làng sở tại. Làng đòi bà sư cô biểu đem nàng ấy ra đình làng mà tra hỏi cho ra việc. Tú Xuất chạy theo: Đứa kêu bác, ]đứa kêu thím, đứa kêu mợ, đứa kêu dì mà khóc cùng đường rằng: Sao cô bỏ...(chú, bác, cậu, dượng...) mà đi tu cho đành!
Làng hỏi, nàng thưa một hai không có chồng, không biết người trai ấy là ai bao giờ...
Làng bắt lý rằng: Sao trẻ năm bảy đứa em cháu nó khóc, nó kêu, nó nhìn mình..., sao nó không nhìn các cô khác? Nên làng dạy bà sư cô giao lại cho Tú Xuất đem vợ về.
Nàng ấy giãy giụa khóc la mà phải vâng phép làng mà về theo Tú Xuất, không chối cãi gì được.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 6:40 pm; sửa lần 1.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Cô Gái Lấy Chồng Hoàng Tử
Ngày xưa ở một làng nọ có một cô gái đẹp. Thấy mọi người đều trầm trồ về nhan sắc của mình, cô bỗng có cái nguyện vọng thầm kín là được lấy hoàng tử làm chồng. Ngày ngày cô đi chợ mua hương đến một ngôi đền trong vùng cầu thần phù hộ cho mình được lấy chồng như nguyện.
Ở chợ hồi ấy có một người lái buôn hương. Thấy cô gái lui tới gánh hàng
của mình, hắn thường thả lời chòng ghẹo, nhưng lần nào cũng bị cô
nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Tuy vậy, hắn vẫn tìm cách lân la gạ chuyện
không nản. Một hôm, hắn chợt có ý muốn tìm biết ngày nào cô gái cũng
chịu khó mua hương xong, sắp sửa ra về, hắn vội gửi gánh hàng cho người
quen rồi lén đi theo bén gót. Nấp sau một cánh cửa, hắn nghe được tất cả những lời khấn khứa rì rầm của nàng và hiểu được điều nàng muốn. Lần khác, sau khi cô gái mua hương xong, hắn đã ba chân bốn cẳng chạy trước tới đền, nấp sau pho tượng thần. Khi nghe cô khấn vừa dứt, hắn nói vọng xuống, giả lời phán của thần:
- Con gái như thế kia làm sao dám đòi lấy chồng hoàng tử. Trên thiên đình đã định cho con làm vợ một người lái buôn hương ở chợ. Số là thế, không thể khác được!
Nghe lời truyền phán rõ ràng, cô gái lủi thủi ra về, trong bụng đinh ninh không thể tránh được số trời đã định. Ngày hôm sau, khi cô đi chợ, người buôn hương lại thả ong bướm, nhưng khác với các lần trước, lần này hắn được cô gái bắt lời. Biết là mưu mẹo của mình có kết quả, hắn hết sức tán tỉnh và cuối cùng cá đã cắn câu. Nhưng người buôn hương nghĩ rằng mình đã nhiều tuổi, nếu đưa lễ đến dạm hỏi chắc chắn bố mẹ nàng không đời nào chịu gả. Vì thế hắn có ý định tìm cách dỗ dành cho cô gái theo không, rồi kín đáo đưa
nàng trốn về quê. Mà phải làm sao cho bà con xóm giềng của nàng không
có ai hay, kẻo họ tìm cách ngăn trở. Khi thấy miếng mồi mười phần đã chắc ăn cả mười, hắn bèn hẹn nàng một ngày nọ tới chờ mình ở một cái lùm sau chợ, hắn sẽ đưa đi trốn.
Đúng hẹn, hai người quả gặp nhau ở lùm cây. Người buôn hương bảo cô gái ngồi vào trong một chiếc bồ lớn đậy mẹt và buộc chặt lại, để hắn gánh đi cùng với một bồ khác đựng
hàng. hắn ghé tai dặn nàng: "Làm như thế sẽ không bị lộ, qua một thời
gian anh sẽ về thú thật với bố mẹ sau". Cô gái nọ cả tin ở số phận nên
vâng lời theo hắn.
Đường đi
phải băng qua một khu rừng vắng. Trong khi người lái buôn hương lòng
mừng khấp khởi với gánh hàng quý trên vai, thì tiếng thét của một toán
lính làm cho hắn giật nẩy mình. Hắn không ngờ rằng ngày hôm ấy, có một
hoàng tử đang đi săn ở khu rừng này. Đầu cửa rừng, người, ngựa, chó săn đang vây bọc các ngả. Vì đang làm việc gian lận, lái thương ta sợ quá, vội quẳng cả gánh hàng mà chạy. Sau đó, có mấy con chó săn đi qua bồ, ngửi thấy hơi người bèn lên tiếng cắn inh ỏi. Nghi ngờ, bọn lính dừng lại lục soát. Khi thấy trong bồ có một cô gái đẹp, bọn chúng rất đổi kinh ngạc, vội dẫn chàng đi gặp hoàng tử lúc đó cũng vừa phi ngựa đến nơi.
Hoàng tử chưa bao giờ thấy một người con gái xinh đẹp đến thế, bèn xuống ngựa bảo nàng ngồi lại chuyện trò. Nghe cô gái kể hết nổi lòng, hoàng tử ngỏ ý đưa nàng về cung làm vợ. Nhân săn được một con hổ, hoàng tử bèn sai bỏ con thú vào bồ đậy mẹt và buộc chặt lại như cũ. Đoạn, ra lệnh cho mọi người trở về kinh thành.
Sau khi hoàng tử và quân lính đi xa, người lái hương từ chỗ trốn lại quay về tìm gánh hàng quý của mình. Thấy cặp bồ còn nguyên chỗ cũ, hắn vội vã đặt gánh lên vai và rảo bước một mạch về nhà. Đến nơi, người nhà xúm lại, hỏi hắn:
- Bồ gì mà nặng thế?
Hắn đáp đùa để dọa:
- Đừng có nhìn mà chết. Hổ đấy!
Nói đoạn, hắn vội xách bồ quý vào buồng đóng cửa lại. Nhưng vừa mở mẹt thì con hổ từ trong đã nhảy ra, vồ hắn ăn thịt.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Cô Hồn Đền Ơn
Ngày xưa, có ông bá hộ lòng dạ rất nhân từ. Ngày rằm tháng bảy, ông đốt nhang đèn bày bánh cúng, bánh cấp, mía, chuối để các cô hồn về hưởng. Cúng xong xuôi ông yên trí vô nhà nằm nghỉ.
Gần nhà ông, có một chòm mả hoang. Đêm đó, có anh bán dầu dừa đi lỡ đường đến chòm mả nọ mà nghỉ lưng. Anh ta nghe thì thào như nhóm chợ, bọn ma quỷ bàn tán qua lại:
- Đồ ăn ngon quá, mấy anh dám ăn không?
- Ông bá hộ có lòng tốt nhưng làm sao ăn được?
Tề Thiên Đại thánh nói rằng bánh cúng không được tinh khiết. Hồi gói bánh, có con nhỏ đầy tớ rủi đứt tay, làm dính máu trong lá chuối gói bánh.
Anh bán dầu dừa biết đó là tiếng nói của cô hồn. Sáng hôm sau, anh ta lập tức đến nhà ông Bá Hộ mà báo sự tình. Ông Bá Hộ hết sức buồn bã, nghĩ thầm:
- Không lẽ mình rầy rà bọn đầy tớ! Cách hay nhất là mình cáo lỗi quỷ thần, cúng lại lần thứ nhì.
Đêm sau, cúng xong, ông Bá Hộ nhờ anh bán dầu dừa ra ngoài chòm mả hoang nghe ngóng tin tức.
Anh ta y lời, rình nghe bọn cô hồn bàn tán:
- Thất bại nữa! Phen này tụi mình chết đói. Hồi hôm qua lá chuối dính máu. Bữa nay thì nấu bánh bằng củi ô uế ở chuồng heo...
Anh bán dầu dừa trở lại thuật cho ông Bá Hộ hay. Ông này buồn bã, hỏi lại thì rõ ràng bọn gia nhân đã lấy mấy khúc củi chuồng heo mà chụm lửa nấu bánh.
Ông Bá Hộ đến chùa gần đó, nhờ nhà chùa cúng giùm, như vậy bảo đảm hơn.
Cúng xong, anh bán dầu cũng ra chòm mả nghe ngóng. Nhưng lần này anh ta dạn dĩ hơn, lên tiếng trước:
- Cô hồn các đẳng ơi! Cúng như vậy ăn được không?
Cô hồn mừng rỡ nói:
- Được! Được! Ông Bá Hộ có lòng tốt trì chí lo lắng chu đáo miếng ăn cho tụi tôi. Anh về nói với ổng: Chừng một trăm ngày nữa chúng tôi đền ơn ổng một vật xứng đáng lắm.
Sẵn có máu tham, anh bán dầu dừa không thuật lại điều ấy cho ông Bá Hộ biết. Anh ta giả đò xin cất chòi kế bên cửa ngõ của ông Bá Hộ. Rồi anh ta sống nương náu chờ ngày mà cô hồn đã hứa. Rình mãi không thấy gì, anh ngã lăn ra ngủ thiêm thiếp. Gà gáy sáng, bừng mắt dậy thì rõ ràng có ba cái lu lớn đặt trước cửa ngõ tự hồi nào. Mỗi lu đều có một con rắn hổ quấn chung quanh. Trong lu, toàn là vàng thoi, bạc nén. Anh ta thò tay vào lu. Tức thì bao nhiêu vàng bạc đều hóa ra hằng trăm con rắn đen
thui, bò lúc nhúc. Hoảng sợ, anh rút tay ra. Vàng bạc hiện trở lại y
nguyên. Lúng túng, anh ta không biết xử trí lẽ nào. Ông Bá Hộ bước ra
cổng, thấy vậy bèn sai gia nhân khiêng vàng bạc vào nhà.
Để đền
ơn anh bán dầu, ông Bá Hộ cho hai thoi vàng, hai nén bạc. Cầm trên tay,
anh ta mừng quýnh vì vang bạc không hóa thành con rắn nữa. Anh ta ra đi, cười hát nghêu ngao rồi vô quán rượu say sưa.
Tỉnh rượu thì hai nén bạc, hai thoi vàng nọ đã bị người khác ăn cắp từ hồi nào.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Con Chó Đá
Ngày xưa, có anh học trò, mỗi ngày đi đến nhà thầy, phải ngang qua một nơi có con chó đá. Lạ một điều, ai đi qua thì con chó cũng trơ trơ, chỉ có anh học trò mỗi lần đi đến thì con chó nhổm dậy tỏ vẻ mừng rỡ.
Anh học trò không khỏi lấy làm lạ, lần kia liền dừng lại hỏi con chó đá rằng:
- Người qua lại ở đây cũng đông, sao các người khác mày không mừng, chỉ riêng mình tao thì mày mừng là tại cớ chi?
Con chó đá đáp rằng:
- Khoa này bao nhiêu người kia, chẳng có ai đỗ đạt cả, chỉ có một mình cậu thi đỗ, số trời đã định nên tôi mừng cho cậu vậy.
Anh học trò nghe nói vậy rất mừng, lúc về nhà kể chuyện lại cho cha mẹ nghe. Từ đó, người cha bỗng lên mặt kiêu căng phách lối bắt nạt mọi người. Có lần người cha dắt trâu ra đồng cày ruộng, thả trâu cho dẫm lên mạ của người làng. Người ta nói, ông ta không thèm đáp lại. Hôm sau, đem thêm trâu ra dẫm be bét cả ruộng của người ta. Chủ ruộng lấy làm bất mãn phiền hà, thì người cha trợn mắt múa chân tay đe dọa:
- Coi chừng, khoa này con ông thi đỗ thì bây sẽ biết tay ông.
Chủ ruộng nghe vậy thì hoang mang lo lắng nên phải chịu lép mọi bề. Hôm sau, anh học trò đi qua chỗ con chó đá thì không thấy nó nhổm dậy vẫy đuôi mừng nữa. Lúc quay về nó cũng không mừng. Anh học trò ngạc nhiên hỏi con chó:
- Mọi lần tao qua đây mày thấy mày mừng, cớ sao bữa nay mày không mừng nữa, tao có làm điều chi không hay chăng?
Con chó đá đáp rằng:
- Việc này không phải tại cậu mà tại cha của cậu lên mặt hống hách bắt nạt đầu này, ức hiếp đầu kia, cho trâu phá ruộng mạ của người ta còn lên giọng hăm dọa, nên Thiên Tào bôi sổ của cậu rồi, khoa này cậu không đỗ đâu, như vậy tôi còn mừng cậu làm gì nữa.
Anh học trò nghe con chó đá nói vậy thì buồn bã ra về thuật chuyện cho cha mẹ nghe. Người cha lấy làm hối hận, từ đó không dám lên mặt hống hách nữa. Riêng anh học trò, khoa đó vào thi mặc dầu học giỏi và cố gắng anh vẫn không đỗ. Lòng lấy làm buồn, vác lều chiếu trở về đợi đến khoa sau.
Khoa sau và khoa sau nữa anh đều thi rới. Cha mẹ anh bấy giờ mới biết lẽ trời chí công,nên hết lòng tu nhân tích đức, ăn ở rất tử tế với mọi người.
Một hôm, anh học trò đi ngang qua chỗ con chó đá, con chó bỗng nhổm dậy mừng rỡ nhìn anh. Anh chưa hỏi gì thì con chó đã lên tiếng:
- Bấy giờ cha cậu mới biết ăn năn sửa mình làm điều thiện, nên Thiên Tào đã ghi tên cậu vào sổ tân khoa, tôi mừng cho cậu đó.
Quả nhiên, khoa thi đó, anh học trò đậu đầu, lúc trở về làng được đón rước linh đình, lúc qua chỗ con chó đá, thì con chó biến đi đâu mất.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Giết Chó Khuyên Chồng
Ngày xưa có hai anh em họ
Trình, ăn ở với nhau cũng thuận hòa, chỉ ngặt là người anh thích chuyện
ăn chơi, giao du kết bạn, vì vậy bao nhiêu tiền của cha mẹ để lại, người anh giành lấy hết, không để cho người em ruột một đồng nào làm vốn sinh nhai.
Người em phải chịu cảnh thiếu thốn nghèo khổ, còn người anh thì tối ngày trà rượu, bài bạc rong chơi. Người anh đi tới đâu cũng có vài ba gã "cặp tàu" để được
ăn uống phủ phê, người anh thường lấy thế làm hãnh diện với làng nước,
người vợ có to nhỏ khuyên giải thế nào cũng không nghe. Đã vậy người em
có đến cậy nhờ chút đỉnh tiền bạc, thóc gạo thì người anh khăng khăng từ chối, đuổi về, trong lúc đó hễ bạn bè của anh ta có cần một đôi quan tiền, người anh lấy đưa ngay không tiếc. Vợ thấy thế bảo chồng:
- Không ai lạ đời như mình cả, ruột lại bỏ ra, người xa bỏ vào là nghĩa lí gì?
Người chồng cãi lại:
- Đàn bà biết gì, để rồi coi, nếu có chuyện gì, bạn bè họ không bỏ tao chớ chú Ba nó thì đừng hòng nhờ cậy gì.
Nói rồi người anh hiu hiu tự đắc cho rằng mình xử thế rất khéo, không mảy may lưu ý đến chuyện giúp đỡ người em. Người vợ biết nói gì nữa với chồng cũng vô ích, nên lẳng lặng làm thinh.
Đêm kia, người chồng vừa về tới nhà, vợ run rẩy kêu chồng vào buồng nói rằng:
- Nguy rồi, hồi chiều này có một lão ăn xin đến trước cửa nhà mình kêu đói, mình cho một bát cơm mà lão còn chê ít đứng ỳ ra đó, đuổi mãi không đi, giận quá, em lấy gậy, đánh lão một gậy lão liền ngã lăn ra chết. Em liền bó thây lão trong chiếc chiếu để dưới sàn ngoài kia, bây giờ mình liệu đem chôn lão cách nào đừng cho ai biết mới tránh khỏi tội giết người, thiệt là oan gia khi không kéo đến nhà mình vậy.
Nghe vợ nói xong, người chồng liền bảo ở nhà đợi, mình đi tìm các bạn về phụ lực đem chôn. Các bạn của anh ta khi nghe kể chuyện, thẩy đều
tìm cách thoái thác và còn khuyên anh ta nên thú tội với quan. Anh ta
chán nản về nói với vợ phải liệu cách nào khác chớ mấy thằng bạn chẳng
người nào chịu tiếp tay đem chôn lão ăn mày.
Người vợ bèn nói với chồng:
- Hay để em đi mời chú Ba may ra chú biết nghĩ tình giúp mình một tay.
Người vợ đi mời người em đến, phụ lực với anh đem chôn lão ăn mày.
Chẳng ngờ mấy thằng bạn của người anh đều là kẻ tiểu tâm, muốn lập công nên họ kéo nhau đến huyện đường tố cáo. Quan huyện truyền cho sai nha đi bắt người anh điệu đến phủ đường. Người vợ liền đi theo kêu oan cho chồng.
Người vợ bẩm với quan huyện:
- Thưa quan huyện những người bạn của chồng tôi họ cáo gian. Sự thật là chẳng có ông già ăn mày nào bị đánh chết cả, vật bó chiếu đem chôn là một con chó.
Quan huyện không tin cho quật mồ lên xem thì thấy xác một con chó bị đánh
chết. Liền hỏi qua duyên cớ. Người vợ thật tình nói rằng vì muốn khuyên
chồng chừa bỏ cái thói giao du với những người bạn xấu nên mới làm thế để cho chồng thấy rõ bụng dạ nham hiểm của con người.
Quan huyện hết lời khen ngợi người đàn bà có chí và truyền răn phạt người xấu xa độc ác. Người chồng đã tỉnh ngộ, xa lánh bài bạc rượu trà và các bạn bè không tốt, từ đó rất thương yêu người em, hết lòng giúp đỡ người em được no ấm.
Ngày xưa có hai anh em họ
Trình, ăn ở với nhau cũng thuận hòa, chỉ ngặt là người anh thích chuyện
ăn chơi, giao du kết bạn, vì vậy bao nhiêu tiền của cha mẹ để lại, người anh giành lấy hết, không để cho người em ruột một đồng nào làm vốn sinh nhai.
Người em phải chịu cảnh thiếu thốn nghèo khổ, còn người anh thì tối ngày trà rượu, bài bạc rong chơi. Người anh đi tới đâu cũng có vài ba gã "cặp tàu" để được
ăn uống phủ phê, người anh thường lấy thế làm hãnh diện với làng nước,
người vợ có to nhỏ khuyên giải thế nào cũng không nghe. Đã vậy người em
có đến cậy nhờ chút đỉnh tiền bạc, thóc gạo thì người anh khăng khăng từ chối, đuổi về, trong lúc đó hễ bạn bè của anh ta có cần một đôi quan tiền, người anh lấy đưa ngay không tiếc. Vợ thấy thế bảo chồng:
- Không ai lạ đời như mình cả, ruột lại bỏ ra, người xa bỏ vào là nghĩa lí gì?
Người chồng cãi lại:
- Đàn bà biết gì, để rồi coi, nếu có chuyện gì, bạn bè họ không bỏ tao chớ chú Ba nó thì đừng hòng nhờ cậy gì.
Nói rồi người anh hiu hiu tự đắc cho rằng mình xử thế rất khéo, không mảy may lưu ý đến chuyện giúp đỡ người em. Người vợ biết nói gì nữa với chồng cũng vô ích, nên lẳng lặng làm thinh.
Đêm kia, người chồng vừa về tới nhà, vợ run rẩy kêu chồng vào buồng nói rằng:
- Nguy rồi, hồi chiều này có một lão ăn xin đến trước cửa nhà mình kêu đói, mình cho một bát cơm mà lão còn chê ít đứng ỳ ra đó, đuổi mãi không đi, giận quá, em lấy gậy, đánh lão một gậy lão liền ngã lăn ra chết. Em liền bó thây lão trong chiếc chiếu để dưới sàn ngoài kia, bây giờ mình liệu đem chôn lão cách nào đừng cho ai biết mới tránh khỏi tội giết người, thiệt là oan gia khi không kéo đến nhà mình vậy.
Nghe vợ nói xong, người chồng liền bảo ở nhà đợi, mình đi tìm các bạn về phụ lực đem chôn. Các bạn của anh ta khi nghe kể chuyện, thẩy đều
tìm cách thoái thác và còn khuyên anh ta nên thú tội với quan. Anh ta
chán nản về nói với vợ phải liệu cách nào khác chớ mấy thằng bạn chẳng
người nào chịu tiếp tay đem chôn lão ăn mày.
Người vợ bèn nói với chồng:
- Hay để em đi mời chú Ba may ra chú biết nghĩ tình giúp mình một tay.
Người vợ đi mời người em đến, phụ lực với anh đem chôn lão ăn mày.
Chẳng ngờ mấy thằng bạn của người anh đều là kẻ tiểu tâm, muốn lập công nên họ kéo nhau đến huyện đường tố cáo. Quan huyện truyền cho sai nha đi bắt người anh điệu đến phủ đường. Người vợ liền đi theo kêu oan cho chồng.
Người vợ bẩm với quan huyện:
- Thưa quan huyện những người bạn của chồng tôi họ cáo gian. Sự thật là chẳng có ông già ăn mày nào bị đánh chết cả, vật bó chiếu đem chôn là một con chó.
Quan huyện không tin cho quật mồ lên xem thì thấy xác một con chó bị đánh
chết. Liền hỏi qua duyên cớ. Người vợ thật tình nói rằng vì muốn khuyên
chồng chừa bỏ cái thói giao du với những người bạn xấu nên mới làm thế để cho chồng thấy rõ bụng dạ nham hiểm của con người.
Quan huyện hết lời khen ngợi người đàn bà có chí và truyền răn phạt người xấu xa độc ác. Người chồng đã tỉnh ngộ, xa lánh bài bạc rượu trà và các bạn bè không tốt, từ đó rất thương yêu người em, hết lòng giúp đỡ người em được no ấm.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Con Cọp Có nghĩa
Xưa có một gia đình họ Võ nuôi một con cọp. Cọp nọ lớn lên được gia đìng thương mến xem như con ruột. Ông Tú tài họ Võ dạy hai đứa con của mình (một trai, một gái) kêu cọp nọ bằng anh Hai.
Vài năm sau, ông được lệnh ra Huế lãng chức vụ mới. Trước khi đi, ông kêu cọp nọ mà căn dặn ráng ở nhà nuôi mẹ nuôi em.
Chừng ông đi được vài ngày, cọp nọ bỗng dưng lại bàn thờ quỳ xuống, la hét. Người mẹ an ủi cọp. Cọp bèn ra dấu tỏ ý muốn xin phép ra đi rồi trở về. Bà Tú tài họ Võ cho phép. Cọp mừng rỡ chạy mất.
Bữa đó ông Tú tài nằm trên cáng trên đường về Huế, thình lình gặp con cọp đón đường. Nhìn lại, rõ là cọp ở nhà chạy theo! Ông biểu cọp trở về. Cọp khóc lóc, sau cùng đem dâng cho ông Tú tài một hoàn thuốc xạ hương để phòng bệnh dọc đường.
Khi về nhà cọp nọ biến ăn biến uống. Về sau được thư ông Tú tài gởi về, cả nhà mới biết rằng con cọp đi kỳ rồi là để dâng thuốc. Ai nấy hết sức cảm động.
Vài hôm sau, ông Tú tài đau nặng, nhờ hoàn thuốc nọ nên tạm thuyên giảm. Ông bèn gởi thư nhắn đứa con trai lớn ra săn sóc. Đứa con đến nơi, ông đã chết.
Cọp ở nhà hằng ngày lo nuôi mẹ và em gái, rảnh thì vô rừng bắt heo hoặc đi lối xóm cột bùa cho con nít kiếm tiền về chi dụng. Hỡi ôi, gia đình bà Tú tài càng ngày càng suy sụp. Nhuốm bệnh, bà từ trần. Cọp khóc lóc thảm thiết, chạ đầu làng cuối xóm để báo tin buồn rồi lạy tạ ơn những người đến giúp chôn cất mẹ.
Năm bảy tháng sau, người con trai ở Huế về Bến Tre. Chừng gặp mặt, cọp
khóc lóc rồi dẫn hai anh em ra thăm mả của bà Tú Tài. Đến nơi, cọp đập đầu vào mả mà tự tử.
Người con trai bèn để tang cho cọp, làm lễ chôn cất kỹ lưỡng rồi lập miếu thờ, đề mấy chữ: "Nghĩa Hổ Trưởng Huynh chi mộ". Sau đó có người làm thơ khen tặng như vầy:
Hùm còn biết nghĩa
nặng cùng người,
Trả thảo liều thân giữa đất trời
Một tấm gia dầu chôn chặt đất
Trăm năm còn mãi tiếng
khen đời.
Re: truyện VN Ở ĐÂY
Con Quạ Sói Đầu
Ngày xưa, Ngưu Lang vì say mê nhan sắc của nàng Chức Nữ mà bỏ phế việc chăn trâu, để trâu đi vào điện
Ngọc khiến Ngọc Hoàng nổi giận, còn Chức Nữ lại say mê tiếng tiêu của
Ngưu Lang nên bỏ việc dệt vải. Ngọc Hoàng vô cùng phẫn nộ, về sau đầy cả ra đầu
sôngNgân cuối sông Ngân, Ngọc Hoàng nghĩ thương tình cho Ngưu Lang,
Chức Nữ mỗi năm gặp nhau một lần vào ngày mùng 7 tháng 7.
Thuở bấy giờ, trên sông Ngân không có thuyền bè, Ngọc Hoàng mới ra lệnh
làm một chiếc cầu bắc ngang sông Ngân. Các thợ mộc ở dưới trần được mời lên trời lo việc làm cầu.
Thế rồi, các thợ mộc mạnh ai nấy làm, mỗi người mỗi ý, gần đến hạn kỳ mà chiếc cầu vẫn không xong.
Ngọc Hoàng lấy làm bực tức, bắt tội tất cả thợ mộc, hóa làm kiếp quạ, lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang, Chức Nữ bước lên đó đi qua sông để gặp nhau.
Được sửa bởi ngày 23/1/2008, 6:42 pm; sửa lần 1.
Trang 2 trong tổng số 3 trang • 1, 2, 3
Similar topics
» Chùm truyện cười!
» Truyện hề đây
» Chùm truyện cười mới đây
» tổng hợp truyện cười
» Tuổi Thơ Dữ Dội-truyện dành cho thiếu nhi của
» Truyện hề đây
» Chùm truyện cười mới đây
» tổng hợp truyện cười
» Tuổi Thơ Dữ Dội-truyện dành cho thiếu nhi của
X1 NK Pro's Forum :: Rì-lách :: Chia Sẻ
Trang 2 trong tổng số 3 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|